Bộ GD&ĐT thừa nhận hiện còn tồn tại tình trạng nể nang, dễ dãi khi thành lập hội đồng đánh giá luận văn, luận án. Ảnh: Quochoi.vn |
Mới đây, cử tri Đà Nẵng phản ánh đến Bộ GD&ĐT, cho rằng hiện nay tình trạng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ nhiều về số lượng nhưng chất lượng chưa cao, ít có công trình khoa học nào mang tính đột phá, có hiệu quả, áp dụng trong đời sống xã hội.
Vì vậy, cử tri kiến nghị Bộ GD&ĐT cần nghiên cứu, xem xét vấn đề này để đảm bảo tính hiệu quả hơn.
Hạn chế về chất lượng đào tạo
Trong văn bản trả lời, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho hay thực tế trong 2 năm trở lại đây, tuyển sinh đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ ở trong nước đã giảm đáng kể.
Năm học 2019-2020, tổng chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo trình độ tiến sĩ do các cơ sở đào tạo xác định là 5.111. Tuy nhiên, toàn hệ thống chỉ tuyển được 1.274 nghiên cứu sinh (tương đương 24,93% so với tổng chỉ tiêu đã xác định), chỉ tiêu đào tạo trình độ thạc sĩ là 59.518 nhưng chỉ tuyển được 41.551 học viên cao học (69,81%).
Năm học 2020-2021, chỉ tiêu đào tạo trình độ tiến sĩ là 5.056 và tuyển được 1.735 (34,32%), chỉ tiêu đào tạo trình độ thạc sĩ là 56.069 nhưng cũng chỉ tuyển sinh được 40.640 (72,48%).
Tính đến thời điểm tháng 11/2022, quy mô đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ của cả nước là 88.243 học viên cao học và 8.933 nghiên cứu sinh ở tất cả các lĩnh vực và ngành đào tạo.
Trong khi đó, ở một số nước khác như Trung Quốc, chỉ riêng trong lĩnh vực Kỹ thuật (engineering), số tuyển mới năm 2020 tại các trường đại học công lập ở nước này là 980.678 học viên cao học và 195.850 nghiên cứu sinh. Ở Israel, năm học 2020-2021 có tới 68.885 học viên cao học và 11.855 nghiên cứu sinh tiến sĩ.
Bên cạnh đó, mục tiêu và chuẩn đầu ra trình độ thạc sĩ, tiến sĩ của Việt Nam đã được quy định theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ).
Theo đó, về cơ bản gần như tương thích và phù hợp với Khung tham chiếu các trình độ ASEAN và Khung trình độ Châu Âu, bảo đảm những người được đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ sau khi tốt nghiệp được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, mức tự chủ và trách nhiệm để bắt đầu triển khai và tiến hành các nghiên cứu khoa học một cách độc lập.
Bộ GD&ĐT nhận định về mặt chính sách, đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ ở Việt Nam đã tiếp cận với các chuẩn của khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, do nguồn lực đầu tư hạn chế chất lượng đào tạo sau đại học trên thực tế không đồng đều trong toàn hệ thống, một số đơn vị chưa tuân thủ chặt chẽ quy chế đào tạo. Từ đó dẫn đến tình trạng chất lượng nhiều công bố khoa học bắt buộc chưa cao, chỉ ở mức đối phó đủ điều kiện công trình.
Hiện còn tồn tại tình trạng nể nang, dễ dãi khi thành lập hội đồng đánh giá luận văn, luận án, thông qua một số đề tài luận án tiến sĩ có phạm vi quá hẹp, không bảo đảm giá trị khoa học…
Nguồn lực đầu tư hạn chế chất lượng đào tạo sau đại học trên thực tế không đồng đều trong toàn hệ thống. Ảnh minh họa: Postsus. |
Tránh nể nang, dễ dãi
Để nâng cao chất lượng công tác đào tạo sau đại học, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho biết Bộ GD&ĐT đã và đang thực hiện đồng bộ những giải pháp như:
- Hoàn thiện hệ thống văn bản, chính sách nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo, tăng cường sự minh bạch, gia tăng vai trò giám sát của các bên liên quan trong đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trên tinh thần thực hiện tự chủ đại học và nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo.
- Tập trung kiện toàn hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong cơ sở đào tạo, tăng cường kiểm định các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, định kỳ rà soát, tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là đội ngũ giảng viên cơ hữu.
- Cơ sở giáo dục cần tăng cường công khai, minh bạch danh mục đề tài luận văn, luận án, học viên cao học, nghiên cứu sinh, người hướng dẫn và nội dung các luận văn, luận án trên trang thông tin điện tử của cơ sở đào tạo theo quy định hiện hành.
- Đề cao liêm chính khoa học, tránh nể nang, dễ dãi trong việc hướng dẫn, đánh giá và phản biện luận văn, luận án.
Bộ GD&ĐT sẽ tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về đào tạo sau đại học của các cơ sở đào tạo, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định hiện hành.
Sách về nghề giáo
Nếu độc giả có hứng thú với nghề giáo - một nghề nghiệp đặc biệt và đang trải qua những biến động lớn, mục Giáo dục giới thiệu một số lựa chọn:
Xin được nói thẳng (GS Hoàng Tụy) và Ước vọng cho học đường (GS Huỳnh Như Phương): Cuốn sách của hai nhà giáo tiên phong tại Việt Nam với nhiều suy nghĩ và những trăn trở của hai ông về tương lai nền giáo dục nước nhà.
Nghề giáo qua các tác phẩm thiếu nhi nổi tiếng: Tình thầy trò trong các tác phẩm văn chương nổi tiếng khiến độc giả cảm động bởi các nhân vật đã làm được những việc lớn lao, vượt xa chức trách của một giáo viên