Bác sĩ Nguyễn Hồng Nhung - khoa Phẫu thuật Hàm mặt và Tạo hình - Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương (Hà Nội) - cho hay bác sĩ vừa thực hiện ca vi phẫu một bệnh nhân ung thư. Đặc biệt, trường hợp này có biểu hiện ban đầu chỉ là vết loét trong khoang miệng.
Dấu hiệu từ vết nhiệt miệng lâu lành
Chia sẻ về trường hợp này, bác sĩ Nhung cho hay bệnh nhân là N.V.C. (50 tuổi) được chẩn đoán mắc ung thư biểu mô sàn miệng xâm lấn xương hàm dưới.
“Bệnh nhân ban đầu có một vết nhiệt ở vùng dưới sàn miệng, sau đó, có uống vitamin nhưng vết loét vẫn lâu khỏi. Vết trợt loét lớn dần, đau rát nhiều hơn. Bệnh nhân đã đi khám ở vài cơ sở tuyến tỉnh, được điều trị nhiệt miệng nhưng không đỡ. Tại viện, kết quả sinh thiết cho thấy ung thư biểu mô tế bào vảy”, bác sĩ Nhung kể.
Trên phim chụp cho thấy khối u lan từ sàn miệng vào vùng xương hàm dưới vùng cửa. Bệnh nhân C. được chỉ định phẫu thuật cắt u, cắt sàn miệng, cắt đoạn xương hàm dưới, nạo vét triệt để hạch cổ 2 bên, tạo hình sàn miệng và xương hàm dưới bằng vạt da - xương xương mác tự do có nối mạch máu.
Ca phẫu thuật được tiến hành song song 2 kíp trên và dưới cho bệnh nhân C. Ảnh: HQ. |
Ngày 17/3, ca phẫu thuật được tiến hành đồng thời 2 kíp mổ. Kíp trên do ThS.BS Nguyễn Tấn Văn - Trưởng khoa Phẫu thuật Hàm mặt và Tạo hình - đảm nhiệm, tiến hành cắt u và nạo vét hạch vùng cổ. Kíp dưới do bác sĩ Nhung đồng thời thực hiện, lấy vạt da, xương mác ở chân của bệnh nhân. Sau đó, đưa vạt xương mác lên nối mạch máu dưới kính hiển vi, sử dụng vạt da tạo hình sàn miệng, xương mác tạo hình đoạn xương hàm dưới đã cắt.
Trong quá trình phẫu thuật, ê-kíp mổ phát hiện khối u của bệnh nhân đã thâm nhiễm rộng vùng sàn miệng. Bệnh nhân phải cắt bỏ sàn miệng 2 bên đồng thời cắt bỏ xương hàm dưới đoạn lớn.
"Phương pháp phẫu thuật phổ biến ở các bệnh viện, để điều trị cho những bệnh nhân tương tự là phải cắt bỏ toàn bộ đoạn xương hàm, dẫn đến người bệnh mất nhiều chức năng, mất đi thẩm mỹ của khuôn mặt và có thể phần nào coi như là bị tàn phế. Do đó, chúng tôi sử dụng kỹ thuật vi phẫu tạo hình sàn miệng, trả lại cho bệnh nhân chức năng vùng miệng như nuốt, thở và trả lại khuôn mặt bằng tạo hình xương mác”, bác sĩ Nhung kể.
Hiện, sau phẫu thuật 2 ngày, bệnh nhân đã ổn định. Phương pháp phẫu thuật vi phẫu đã đem lại tính thẩm mỹ cao, người bệnh được phục hồi chức năng tốt, bệnh hầu như không tái phát như cách mổ thông thường. Theo bác sĩ Nhung, tỷ lệ thành công của các ca mổ là hơn 98%.
Nguyên nhân gây bệnh
Bác sĩ Nhung cho biết thêm tiến hành nghiên cứu hồi cứu hồ sơ của 11.738 bệnh nhân tới khám và điều trị tại khoa Phẫu thuật Tạo hình Hàm mặt, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội, trong 5 năm gần đây (từ 1/2015 đến 12/2019), cho thấy có tới 628 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư khoang miệng với các giai đoạn bệnh lý khác nhau, chiếm 5,35% trong tổng số bệnh nhân hàm mặt, hàng năm phát hiện 127,6 người mắc bệnh mới.
Về giới tính, ung thư khoang miệng thường hay gặp ở nam giới hơn nữ do nam giới có thói quen không lành mạnh như uống rượu và hút thuốc. Theo King và cộng sự năm 2010, hút thuốc có liên quan tới tổn thương ung thư và tiền ung thư khoang miệng. Người hút thuốc dưới 5 điếu/ngày có nguy cơ tổn thương tiền ung thư và ung thư cao hơn gấp 2 lần so với người không hút thuốc. Bên cạnh đó, rượu cũng là một nguyên nhân lớn làm tăng bệnh ung thư miệng. Sự kết hợp của hút thuốc và uống rượu càng làm nguy cơ mắc ung thư miệng cao hơn.
Kíp dưới do bác sĩ Nhung đồng thời thực hiện, lấy vạt da, xương mác ở chân của bệnh nhân. Ảnh: H.Đ. |
Đặc biệt, theo bác sĩ Nhung, nhai trầu cũng là một yếu tố quan trọng làm gia tặng tỷ lệ mắc ung thư khoang miệng ở phụ nữ Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á.
Hiện, thói quen nhai trầu ở phụ nữ Việt đã giảm, song số lượng bệnh nhân nữ mắc bệnh ung thư khoang miệng cao ngang nam giới cho thấy ngoài những yếu tố thói quen không lành mạnh đặc trưng cho hai giới tính thì yếu tố môi trường sống bị ô nhiễm, thói quen ăn uống không đảm bảo vệ sinh hay bệnh lý nhiễm virus HPV, bệnh lý biến đổi gen là những yếu tố gây ung thư khoang miệng.
Bác sĩ Nhung cho biết những bệnh nhân ung thư khoang miệng nói chung, ung thư biểu mô sàn miệng nói riêng, được phẫu thuật rộng rãi và nạo vét hạch triệt để sẽ không cần điều trị. Nếu hạch nạo vét có kết quả âm tính, người bệnh không cần điều trị hoá trị bổ trợ, còn kết quả hạch là dương tính thì phải điều trị hoá trị và xạ trị bổ trợ.
Tuy nhiên, bệnh nhân C. là một ca bệnh ung thư phát hiện muộn, tế bào ung thư đã xâm lấn từ biểu mô miệng vào tới xương.
Bệnh nhân có dấu hiệu từ vết nhiệt ở miệng song không để ý, khi tới bệnh viện, khối u đã xâm lấn nên phải phẫu thuật lớn. Bác sĩ phải sử dụng mảng da lớn đi kèm để tạo hình sàn miệng rất phức tạp. Qua ca bệnh này, bác sĩ Nhung khuyên những người có triệu chứng nhiệt lâu không liền cần tới khám đúng nơi để được chẩn đoán đúng. Khi đó, việc điều trị sẽ nhẹ ngành và kết quả tốt hơn cho bệnh nhân.