Con trai Văn Hiệp: 'Bố tôi cô độc đến cuối đời'
"Có bao nhiêu tiếng cười ông mang tặng hết cho đời, chỉ giữ lại những năm tháng dài rộng của đời mình nỗi cô đơn và buồn tủi", Thắng không giấu nổi ánh mắt buồn khi nói về người cha vừa đi xa.
Con trai lớn của nghệ sĩ Văn Hiệp cao lớn, rắn rỏi và mạnh mẽ. Ở anh còn có chút gì phong trần, bụi bặm, khác hẳn dáng vẻ nhỏ bé, hiền lành và khắc khổ của cha. Anh từng có những năm tháng nuôi đam mê dưới ánh đèn sân khấu nhưng cuộc sống lại đẩy anh rẽ sang một con đường khác với nhiều nuối tiếc.
Anh xúc động kể về những tháng ngày người cha đau đớn chống chọi với căn bệnh ung thư phổi bằng niềm lạc quan vô bờ bến.
"Có bao nhiêu tiếng cười ông mang tặng hết cho đời, ông chỉ giữ lại nỗi cô đơn buồn tủi". |
Anh kể, cả cuộc đời ông, trên đôi vai gầy gò, nhỏ bé ấy gồng gánh quá nhiều nỗi buồn. Có bao nhiêu tiếng cười ông mang tặng hết cho đời, ông chỉ giữ lại những năm tháng dài rộng của đời mình là nỗi cô đơn và buồn tủi. Cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, hình như ông vẫn là người cô độc.
"Tôi chẳng nhớ nhiều những ký ức ngày ấu thơ bởi lúc đó mẹ đi xuất khẩu lao động sang Đức để lại bố cảnh gà trống nuôi con vò võ. Mẹ đi không về nữa, chẳng phải vì có một bờ vai khác cho mẹ dựa vào, cũng chẳng rõ vì sao nhưng từ ấy hai anh em cảm nhận rõ một sự nứt vỡ chẳng bao giờ có thể hàn gắn.
Mẹ không lấy chồng Tây, bố cũng chẳng đi bước nữa, nhưng tình yêu chẳng đủ đưa hai người về lại với nhau. Hơn 20 năm, 4 người trong gia đình sống với những chất chứa chẳng thể nói thành lời, chỉ thấy ai cũng lầm lũi, cô đơn rồi đưa ánh mắt về phía nhau. Tôi cũng chỉ thấy ánh mắt bên kia thoảng buồn.
Tôi từng có những năm tháng tuổi trẻ nuôi đam mê nối nghiệp bố, mắt sáng lên khi thấy ánh đèn sân khấu, khi được nghe tiếng máy quay. Tôi cũng đến trường, đến lớp, ngày đêm miệt mài tập luyện ở nhà hát Tuổi Trẻ cùng những Vân Dung, Quốc Quân… Rồi cuộc sống đẩy tôi rẽ sang một con đường khác.
Học được một vài năm, tôi vi phạm nội quy khi yêu một chị học cùng lớp. Tôi tưởng rằng bản án đuổi học chỉ là dọa suông, ai ngờ bị đuổi học thật. Tuổi trẻ bồng bột, bốc đồng và tính sĩ diện hão khiến tôi cũng buông xuôi, chẳng nhờ vả bố xin cho ở lại, tự ý bỏ ngang. Tôi ra khỏi nhà, ăn chơi, phá phách suốt một thời gian dài.
Sau này, người quen biết vẫn nói về ánh mắt của bố trong những chiều đi trên chiếc xe đạp cũ, dáng người chênh vênh tìm kiếm tôi khắp các con đường, khắp nơi ông nghĩ sẽ tìm được thằng con trai mình. Ánh mắt ấy buồn và hình như bất lực lắm. Ngày đó, tiếc nuối nhiều vì không theo được nghề của bố nhưng cái tôi ngông cuồng và tự phụ của một thằng con trai lỳ lợm 20 tuổi đầu đã lấn át tất cả. Tôi xách ba lô và vài bộ quần áo sang Đức theo mẹ, quẳng lại cho bố thêm một nỗi cô đơn và đứa em gái nhìn tôi cố cắn chặt môi cho khỏi bật ra tiếng khóc. Gia đình tôi từ ấy mỗi người lại để dành thêm một chút nứt vỡ trong mình.
Sau những năm tháng nhọc nhằn bươn chải kiếm sống nơi xứ người, tôi cũng không còn tiếc nuối quá nhiều. Tôi vẫn tự an ủi mình nghề nào cũng là nghề. Tôi nhớ khi ở Đức chỉ biết về Việt Nam qua một kênh truyền hình, những vai diễn hài sau này của bố tôi không được biết nhiều. Tôi chỉ hay nhớ về hình ảnh của ông với vai diễn chú lính bé nhỏ ngồi khóc nhớ mẹ trong Bài ca Điện Biên năm nào, rồi lại chập chờn trong giấc mơ loáng thoáng những ánh đèn sân khấu.
Mẹ có thể nhưng tôi chẳng sống mãi được nơi xứ người. Ngày về nước, tôi thấy ánh mắt bố ánh lên một chút hy vọng chứ chưa hẳn là niềm vui. Có lẽ chừng ấy cũng là đủ để tôi trở về.
Tôi không trở thành ông to bà lớn, cuộc sống trắc trở khi đi qua 2 lần đò với hai người vợ và những đứa con khác mẹ. Mỗi lần về nhà tôi lại mang thêm một ít nỗi buồn nhờ ông cất giữ. Con cái lớn cả, tôi đi làm phiên dịch, xuất nhập khẩu, còn em gái đi lồng tiếng, bố vẫn đi đóng phim, diễn hài đến tận lúc gần cuối đời vẫn miệt mài kiếm tiền đưa cho vợ, con. Cuộc sống không đến mức giật gấu vá vai mà sao vẫn chưa đủ đầy và nhiều lo toan.
"Bố gục ngã trên chuyến gánh gồng sau chót". |
Bố tôi biết mình bị bệnh nhưng gan lỳ lắm, nhất định không chịu đến bệnh viện, cứ xuê xoa rồi lại kỳ cạch đi đóng phim. Mãi đến chuyến gánh gồng sau chót vào cuối năm ngoái ấy, bố tôi mới gục ngã hẳn. Ngày 23 Tết đưa bố đến bệnh viện, các bác sĩ nói đã quá muộn vì căn bệnh bắt đầu di căn. Sau đó, bố nằng nặc đòi về nhà, nhất định không bao giờ bước chân đến bệnh viện thêm một lần nào. Đến tận lúc cận kề cái chết, bố vẫn sợ tốn tiền của các con, sợ chúng tôi mất thời gian trông nom, sợ đếm những ngày tháng cuối đời qua ô cửa sổ ở nơi toàn tiếng lách cách kim tiêm và mùi thuốc men.
Hơn 6 tháng ở nhà, người ngoài nhìn vào vẫn thấy bố cười nói vui vẻ, chỉ có dáng vẻ là gầy đi thấy rõ và lần nói chuyện nào cũng phải nghỉ giữa chừng vì mệt. Chỉ con cái trong gia đình mới biết, mỗi khi có một mình, ông hét lên rồi quằn quại trong đau đớn vì không thể chịu đựng nổi. Nhìn ông không ai cầm nổi nước mắt, tiếng hét đến lạc cả giọng ấy đến suốt đời này tôi cũng chẳng thể quên.
Ông thường ngồi lầm lũi một góc nhà, đôi mắt cứ nhìn xa xôi và hoang hoải như đợi chờ một điều gì đó. Bố cô độc đối diện với nỗi cô đơn trống vắng và buồn tủi chẳng thể san sẻ cùng ai.
Sau đó, mẹ cũng về nước, chăm sóc ông được một vài ngày khi ông đau ốm, chẳng biết như thế có bù đắp được phần nào hay chỉ làm ông thêm đau khổ khi sau đấy bà lại ra đi. Tôi chỉ biết, mấy chục năm sống cùng ông là từng ấy quãng thời gian ông câm lặng khi người khác nhắc đến người đàn bà của cuộc đời mình. Hai anh em tôi là những người cảm nhận rõ nhất, không bao giờ được chạm vào vết thương chưa khi nào lành ấy.
Mẹ - là từ ít khi được chúng tôi nói đến nhất trong cuộc sống của ba cha con.
Ngày mai mẹ sẽ về nước để chịu tang người chồng mấy chục năm không sống cùng nhau nhưng cũng không ly dị. Không biết ở thế giới bên kia ánh mắt ông có hấp háy thêm một chút hy vọng.
Khi còn khỏe, dự cảm trước cái chết của mình, ông chỉ nói sau này hãy hỏa thiêu bố rồi quay sang nhìn tôi hỏi: "Mày có dám mang tro về nhà không?". Tôi nói: "Bố thích thì con mang về nhà thờ, con chẳng sợ gì". Nghe thế, ông không nói gì nữa.
Anh dừng câu chuyện khi nghe tiếng điện thoại mẹ gọi về từ Đức nói bà sẽ bay chuyến mấy giờ và dặn người ra đón. Hình như, ánh mắt anh cũng ánh lên tia hy vọng.
Anh đứng lên và đi gọi cô em gái xem việc nhà lo liệu đến đâu và không quên quay lại nói với người viết: "Mọi người thường gọi bố là bác trưởng thôn, lúc nào cũng mang theo cái điếu cày. Từ khi phát hiện ra bị bệnh tới lúc mất, hơn 6 tháng, bố tôi chỉ hút trộm đúng một điếu. Lúc mất ông gầy lắm, tôi bế lên mà nhẹ bẫng, đoán chừng bố chỉ còn 32 cân".
Theo VTC