Đó là một số điểm được điều chỉnh trong Quy chế tuyển sinh, đào tạo trình độ tiến sĩ do Bộ GD&ĐT vừa ban hành.
Bà Nguyễn Thu Thủy - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT - cho biết quy chế này có nhiều điều chỉnh khoa học, khách quan và công bằng. Sự thay đổi đó được đưa ra nhằm đảm bảo phù hợp với thực tế, tăng cường liêm chính học thuật, học thật, nghiên cứu thật và nâng cao tự chủ, trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học.
Bà Nguyễn Thu Thủy cho hay quy chế mới khắc phục một số hạn chế trong thực tiễn triển khai, tăng cường quy định bảo đảm liêm chính học thuật, học thật, nghiên cứu thật. Ảnh: VOV. |
Điều chỉnh để bảo đảm liêm chính học thuật
- Lý do ban hành quy chế mới và quan điểm, chủ trương của Bộ GD&ĐT khi xây dựng ban hành thông tư này là gì, thưa bà?
- Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ được ban hành kèm theo Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT ngày 4/4/2017 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (Quy chế 08) trước khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật 34) có hiệu lực. Do vậy, một số quy định trong quy chế không còn phù hợp với quy định của Luật 34 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật 34.
Bên cạnh đó, sau 4 năm thực hiện Quy chế 08, quá trình kiểm tra, giám sát, căn cứ vào các báo cáo của các cơ sở đào tạo tiến sĩ cho thấy một số quy định trong quy chế cần điều chỉnh để đảm bảo phù hợp với thực tế triển khai, nâng cao tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo trong việc bảo đảm chất lượng đào tạo tiến sĩ.
Cụ thể, một số điểm cần điều chỉnh như quy định về người học, người hướng dẫn, thành viên các hội đồng đánh giá, việc tổ chức tuyển sinh, quản lý đào tạo (học chính quy, học trực tuyến, công nhận khối kiến thức đã tích lũy, bảo lưu kết quả học tập…).
Quan điểm của Bộ GD&ĐT khi xây dựng và ban hành quy chế này là kế thừa những quy định tích cực và khả thi gắn với thực tế triển khai hoạt động đào tạo trình độ tiến sĩ của Quy chế 08 tại các cơ sở trong thời gian qua.
Bên cạnh đó, quy chế mới khắc phục một số hạn chế trong thực tiễn triển khai, đặc biệt, tăng cường quy định bảo đảm liêm chính học thuật, học thật, nghiên cứu thật và nhấn mạnh vào vai trò tự chủ, trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học theo Luật 34.
- Triển khai thực hiện quy chế này, các cơ sở đào tạo tiến sĩ cần lưu ý gì để vừa đảm bảo chất lượng đào tạo tinh hoa, vừa đảm bảo sự tồn tại, phát triển?
- Đào tạo tiến sĩ là bậc đào tạo cao nhất trong giáo dục đại học và trong hệ thống giáo dục quốc dân, đào tạo tinh hoa, nhà khoa học, nhà nghiên cứu.
Do đó, việc đào tạo phải chuẩn từ chất lượng đầu vào, đảm bảo cơ chế có sàng lọc trong quá trình đào tạo và đạt chuẩn chất lượng đầu ra, cũng như phải có tính hội nhập trong bối cảnh quốc tế hóa hiện nay.
Tuy nhiên, việc chuyển từ đào tạo theo số lượng sang chú trọng chất lượng sẽ tạo ra nhiều thách thức cho cả nghiên cứu sinh, người hướng dẫn, cơ sở đào tạo, nhất là khi trình độ, chất lượng đào tạo giữa các cơ sở, các lĩnh vực đào tạo chưa đồng đều.
Vì vậy, các cơ sở đào tạo tiến sĩ cần chủ động xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ nghiên cứu sinh, người hướng dẫn trong việc công bố nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước.
Các trường cũng cần kết nối các đề tài nghiên cứu của cơ sở với đề tài nghiên cứu khoa học các cấp đồng thời, tăng cường sự hợp tác giữa cơ sở đào tạo tiến sĩ - viện nghiên cứu và doanh nghiệp để hỗ trợ các nghiên cứu đặt hàng, chuyển giao công nghệ.
Số lượng nghiên cứu sinh/người hướng dẫn, mốc thời gian đào tạo, quá trình phản biện đều được điều chỉnh. Ảnh: Người Lao Động. |
Những điều chỉnh đáng chú ý
- Với mục tiêu và chủ trương như trên, quy chế lần này có những điểm đáng chú ý/nào?
- Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ mới có những điều chỉnh khoa học, khách quan và công bằng trong đào tạo trình độ tiến sĩ. Đáng chú ý, quy chế tiếp tục mở rộng tự chủ, trách nhiệm giải trình, lượng hóa, chuẩn hóa những quy định về ngoại ngữ, năng lực nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh, quy định về tổ chức, quản lý đào tạo linh hoạt hơn.
Trong đó, để mở rộng tự chủ, trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo tiến sĩ theo Luật 34, quy chế tiếp tục giảm thiểu những nội dung hướng dẫn chi tiết, thay vào đó, yêu cầu cơ sở đào tạo cụ thể hóa quy trình, thủ tục liên quan.
Cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm cao hơn về việc tổ chức triển khai thực hiện từ xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức tuyển sinh, công nhận nghiên cứu sinh, tổ chức đào tạo, cấp bằng tốt nghiệp.
Để lượng hóa, chuẩn hóa những quy định, đối với người dự tuyển, quy chế bổ sung minh chứng về trình độ ngoại ngữ (sử dụng các chứng chỉ quốc gia theo khung ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam bên cạnh những chứng chỉ được quốc tế công nhận như IELTS, TOEFL…).
Các bài báo, báo cáo khoa học trong danh mục tạp chí World of Sciences (WoS) và Scopus vẫn là yêu cầu để minh chứng cho kinh nghiệm, kết quả nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn và đầu ra của nghiên cứu sinh.
Bên cạnh đó, quy chế bổ sung việc chấp nhận các sách chuyên khảo, các công bố tại các tạp chí trong nước có chất lượng tốt theo tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng Giáo sư Nhà nước. Các ghi nhận chỉ áp dụng nếu là tác giả chính.
Quy chế cũng cho phép thay thế các công bố nghiên cứu khoa học bằng kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đã đăng ký, được cấp bằng độc quyền sáng chế quốc gia, quốc tế hoặc giải thưởng chính thức của cuộc thi quốc gia, quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật, nhóm ngành thể dục, thể thao, được công nhận bởi cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
Cách tính điểm sẽ căn cứ theo khung điểm tối đa của Hội đồng Giáo sư Nhà nước quy định, với tổng điểm đối với người hướng dẫn là 4, đối với đầu ra của nghiên cứu sinh là 2.
Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng hiệu quả trước sự thay đổi trong quá trình đào tạo, các quy định về tổ chức, quản lý đào tạo trong quy chế này linh hoạt hơn, do cơ sở tự chủ quyết định.
Theo đó, người học được tạo điều kiện bảo lưu kết quả học tập trong thời gian nhất định để tiếp tục theo học, nghiên cứu nếu có nhu cầu.
Quy chế điều chỉnh tăng số lượng nghiên cứu sinh/người hướng dẫn trong cùng một thời gian. Quy định này nhằm thu hút, tận dụng tri thức của những người đủ điều kiện để đóng góp vào công tác nghiên cứu, đào tạo thế hệ tương lai, nhưng không làm giảm chất lượng đào tạo.
Cụ thể, giáo sư hướng dẫn độc lập tối đa 7 nghiên cứu sinh. Phó giáo sư hoặc tiến sĩ khoa học được dẫn độc lập tối đa 5 nghiên cứu sinh. Tiến sĩ hướng dẫn độc lập tối đa 3 nghiên cứu sinh. Trường hợp đồng hướng dẫn một nghiên cứu sinh được tính quy đổi tương đương hướng dẫn độc lập 0,5 nghiên cứu sinh.
Các mốc thời gian đào tạo tiến sĩ cũng được thay đổi so với trước để đáp ứng yêu cầu đào tạo thực tiễn.
Theo đó, tổng thời gian đào tạo tiêu chuẩn là 3-4 năm. Tổng thời gian học tập nghiên cứu trước khi trình hồ sơ thực hiện quy trình phản biện độc lập, bảo vệ cấp cơ sở là 6 năm. Thời hạn để hoàn thành các thủ tục bảo vệ luận án ở cơ sở sau thời gian này là từ 6 tháng đến 1 năm theo tình hình thực tế do cơ sở đào tạo quyết định.
Để bảo đảm khách quan, công bằng, xác định đúng vai trò của phản biện độc lập, quy trình phản biện cũng có thay đổi.
Phản biện độc lập là một trong những kênh hỗ trợ cho cơ sở đào tạo nhìn nhận lại chất lượng đào tạo. Đánh giá của các chuyên gia bên ngoài cơ sở đào tạo về chất lượng luận án của nghiên cứu sinh là căn cứ để cơ sở đào tạo có giải pháp cải tiến quy trình đào tạo, nâng cao chất lượng.
Ngoài ra, quy trình phản biện có thể tiến hành đến 2 lần, tăng so với 1 lần như quy định trước nhằm đảm bảo nghiên cứu sinh, người đánh giá có cơ hội giải trình hoặc bảo lưu quan điểm trong nghiên cứu của mình.
- Quy chế bổ sung việc công nhận bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín trong nước. Ở thời điểm hiện tại, vì sao điều này là cần thiết, thưa bà?
- Việt Nam hiện có trên 600 tạp chí khoa học. Hệ thống tạp chí được Hội đồng Giáo sư Nhà nước tính điểm có hơn 400 tạp chí.
Chất lượng của một số tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín ở trong nước trong gần 5 năm vừa qua đã thật sự thay đổi rất tích cực và cần được ghi nhận.
Chúng ta đang có một tạp chí được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu SCIE (Science Citation Index Expansed), 6 tạp chí thuộc ESCI (Emerging Sources Citation Index) của Web of Sciences, 8 tạp chí Scopus và 18 tạp chí được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu của ACI (ASEAN Citation Index).
Do đó, sự ghi nhận, công nhận đối với các tạp chí trong nước sẽ là động lực để các tạp chí khoa học phấn đấu nâng cao chất lượng, tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế bằng nội lực, từ đó, đẩy mạnh việc quan tâm xây dựng các tạp chí trong nước vươn lên đẳng cấp quốc tế.
Bên cạnh việc góp phần đưa kết quả nghiên cứu của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh đến với cộng đồng khoa học quốc tế, việc công bố các kết quả nghiên cứu qua các tạp chí có uy tín ở trong nước là một kênh để những sản phẩm khoa học có giá trị phù hợp với điều kiện của Việt Nam đến được với đông đảo những người quan tâm ở trong nước.
Đây là sự ghi nhận các kết quả nghiên cứu ứng dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn, góp phần tư vấn và xây dựng chính sách tại Việt Nam.
Quy định này cũng khẳng định trách nhiệm, đóng góp đối với quốc gia của các nhà khoa học, nghiên cứu sinh Việt Nam.