Mặc dù quy mô xuất khẩu dịch vụ du lịch của Việt Nam tuy không lớn như một số nước (lên tới trên dưới 10% GDP), nhưng cũng thuộc loại khá, bằng khoảng 4% GDP, chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam.
Về đích trước 2 năm
Lượng ngoại tệ thu được từ khách quốc tế chi tiêu tại Việt Nam năm 2014 có chăng chỉ thua lượng kiều hối (12 tỷ USD), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện (12,35 tỷ USD), còn cao hơn nhiều lượng vốn ODA giải ngân (5,5 tỷ USD)… Lượng ngoại tệ này đã góp phần làm cho cán cân thanh toán tiếp tục có số dư, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá…
Khách quốc tế đến Việt Nam còn tạo điều kiện cho hàng trăm nghìn công ăn việc làm ở trong nước, không chỉ ở các cửa khẩu, sân bay, các resort..., các đô thị, mà còn cả ở vùng sông nước, vùng sâu, vùng xa, những điểm tham quan du lịch mới được phát hiện, khai thác, đánh thức tiềm năng ở nhiều vùng.
Việc thu hút khách quốc tế đem lại nhiều lợi nhuận cho Việt Nam. |
Mặc dù lượng ngoại tệ mà khách quốc tế đến Việt Nam chi tiêu là không nhỏ, nhưng việc thu hút khách quốc tế đến Việt Nam lại không chỉ là vấn đề tiền bạc. Điều quan trọng hơn cả tiền bạc, đó là cơ hội để Việt Nam giới thiệu hình ảnh đất nước mình với nước ngoài, một cách trực tiếp nhất, có tính thuyết phục nhất và về nhiều mặt nhất.
Lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 2014 đạt trên 7,87 triệu lượt người, đông nhất từ trước tới nay, tăng gần như liên tục qua các năm, chỉ bị “ngắt quãng” (giảm) vào 2 năm (1998 và 2009) do bị tác động bởi các cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ và suy thoái kinh tế khu vực và thế giới.
Theo Tổng cục trưởng Du lịch Nguyễn Văn Tuấn, ngành du lịch đã tạo ra sự phát triển mang tính bứt phá, đã đạt mục tiêu chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đặt ra cho năm 2015 trước 2 năm.
“Tuy nhiên cũng phải nói rằng chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức cả về khách quan và chủ quan. Ngành du lịch Việt Nam phát triển chưa tương xứng với sự giàu có, phong phú về tài nguyên tiềm năng du lịch của chúng ta về du lịch biển đảo, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái… chưa đạt được mong đợi của xã hội”, ông Tuấn nhìn nhận.
Kỳ vọng từ Nghị quyết mới
Vì vậy, sự ra đời của Nghị quyết 92/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới được kỳ vọng sẽ khắc phục những nhược điểm của du lịch Việt Nam, nâng cao nhận thức, tăng cường sự liên kết liên ngành liên vùng, nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam.
Từ đó, xây dựng các chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch từ đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh đến cải thiện, củng cố nâng cao chất lượng dịch vụ hàng không, đường thủy, đường biển, đường bộ, đường sắt.
Với quan điểm tiếp cận coi doanh nghiệp là yếu tố trung tâm là động lực, là lực lượng quyết định để phát triển ngành du lịch, Nghị quyết yêu cầu các Bộ ngành, địa phương kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong các vấn đề về thuế, chính sách đối với các dự án du lịch, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch... Đồng thời tăng cường công tác xúc tiến quảng bá đa dạng hóa sản phẩm du lịch, nâng cấp chất lượng dịch vụ tại các điểm đến, gắn với đảm bảo an ninh an toàn cho du khách.
Cuối cùng là tập trung nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa phương, trong đó cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các quy định về du lịch phù hợp với hội nhập và những đổi mới của tình hình thực tiễn đang đặt ra.
Còn nhớ, sau Nghị quyết của Chính phủ về phát triển du lịch ban hành năm 1992, Du lịch Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất lẫn lượng và nhiều người hy vọng với sự ra đời của nghị quyết 92 mới ngành du lịch sẽ có bước nhảy vọt tiếp theo, phát tiển tương xứng với tiềm năng văn hóa, danh thắng, tài nguyên thiên nhiên… của đất nước.