Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003 thì bán dâm được hiểu là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác; mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.
Hai hành vi trên đều bị coi là những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm và tùy từng trường hợp sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có dấu hiệu của tội phạm.
Trong trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính thì theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính 2013, có ghi rõ nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính theo đó:
“Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính”.
Như vậy, trong trường hợp này bạn có thể yêu cầu người đang tiến hành kiểm tra hành chính bạn đưa ra căn cứ chứng minh rằng đang có hành vi mua, bán dâm giữa bạn và bạn gái của bạn. Trường hợp người tiến hành kiểm tra không đưa ra được căn cứ chứng minh thì đương nhiên được xem là không có vi phạm hành chính về hành vi mua, bán dâm giữa bạn và bạn gái của bạn. Hoặc bạn có thể tự mình chứng minh sự tự nguyện của bạn và bạn gái bạn với người đang tiến hành kiểm tra hành chính.
Do bạn không nói rõ bạn gái bao nhiêu tuổi nên chúng tôi không thể trả lời cụ thể về việc trường hợp của bạn có dấu hiệu của tội phạm hay không. Vì vậy, chúng tôi trích dẫn hai quy định của Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) sau để bạn tham khảo:
Điều 112 - Tội hiếp dâm trẻ em
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 115 - Tội giao cấu với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.