Thuốc còn được dùng để giảm đau, chống viêm (trong các bệnh xương khớp) và dự phòng biến chứng tim mạch ở các bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao. Cần lưu ý, không sử dụng aspirin để phòng đau tim hoặc đột quỵ ở những người khỏe mạnh.
Để giảm bớt tác dụng phụ trên đường tiêu hoá các nhà sản xuất đã sản xuất ra các dạng bào chế: viên bao phim, viên sủi, sử dụng các tá dược “che chở” nhằm mục đích giảm sự tiếp xúc trực tiếp của phân tử thuốc với niêm mạc đường tiêu hoá như dạ dày, ruột...
Những năm gần đây, do phát hiện được thụ thể COX liên quan đến việc tổng hợp prostaglandin, tạo chất nhày bảo vệ dạ dày, còn thụ thể COX1 chịu trách nhiệm về các phản ứng viêm -đau- sốt nên những hợp chất mới có tác dụng chọn lọc trên thụ thể COX1 ra đời như meloxicam, celecocib… với hy vọng làm giảm tác dụng phụ trên dạ dày. Nhưng do tác dụng chọn lọc chưa đủ mạnh nên cho đến thời điểm hiện nay chưa có chất nào thực sự không gây loét dạ dày.
Vì vậy, đối với người bệnh để dùng thuốc an toàn hơn và hạn chế (khắc phục) tác dụng gây hại đường tiêu hóa, khi dùng aspirin nói riêng và các thuốc giảm đau, kháng viêm không sterroid cần chú ý:
Đối với dạng viên nén trần (không có màng bao đặc biệt) nên uống thuốc vào bữa ăn. Khi uống nên nhai viên thuốc và uống kèm theo một cốc nước to (khoảng 200 ml).
Đối với loại viên bao tan trong ruột (loại bao cả viên) phải uống xa bữa ăn để thuốc khi vào dạ dày được đẩy nhanh xuống ruột non, tan ra và hấp thu tại đây. Nếu uống thuốc vào lúc no thuốc sẽ được giữ lại cùng với thức ăn ở dạ dày lâu hơn, chưa xuống được ruột non thuốc đã tan ra rồi. Như vậy sẽ không phát huy được tác dụng của thuốc.
Đối với dạng viên sủi bọt hoặc dạng thuốc bột uống, cần hoà tan thành dung dịch trước khi uống (ví dụ gói thuốc bột aspegic).
Người ta cũng có thể dùng kèm thuốc giảm đau kháng viêm không steroid với các thuốc chống loét dạ dày như các chất kháng thụ thể H2 (cimetidin, ranitidine…), các chất chẹn bơm proton (omeprazol, lanzoprazol).