Giáo sư Lê Văn Cường từng giữ vị trí Giám đốc nghiên cứu cấp cao của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, CNRS. |
'Nhiều công trình của giảng viên chỉ ngang tầm sinh viên Master'
- Thưa giáo sư, ông nghĩ như thế nào về tình hình nghiên cứu của các trường đại học Việt Nam?
- Tôi đã đọc khá nhiều công trình nghiên cứu của giảng viên các đại học kinh tế ở Việt Nam. Rất nhiều trong đó chỉ ngang tầm công trình của một sinh viên vừa tốt nghiệp năm thứ nhất (M1), hay năm thứ hai (M2) Master của các đại học kinh tế ở châu Âu.
Tôi không có con số tiền đầu tư vào nghiên cứu của Việt Nam. Con số đầu tư vào giáo dục ở Việt Nam khoảng 1% của GDP, không phải nhỏ so với Indonesia, Malaysia (khoảng 0,5%).
Nhưng câu hỏi đặt ra là hiệu quả việc đầu tư ấy như thế nào? Hơn nữa, tham nhũng ở Việt Nam có làm giảm con số 1% ấy không? Nếu có, con số thực là bao nhiêu? Nếu những lời đồn về con số tham nhũng (30%) là đúng, thì thật ra Việt Nam chỉ đầu tư khoảng 0,7% GDP. Con số này không xa lắm hai nước trên.
- Cụ thể hơn, về trình độ của giảng viên và việc đào tạo nghiên cứu sinh?
- Tôi đã hướng dẫn luận án tiến sĩ cho một số giảng viên đại học của Việt Nam và theo dõi một số giảng viên khác trong quá trình làm luận án. Một vài người (thiểu số) ra về hai bàn tay trắng, vì không đủ can đảm đi tiếp khi nhận thấy trình độ kiến thức của mình quá thấp so với chuẩn các đại học Pháp.
Nhiều người trong số còn lại không có đủ kiến thức kinh tế để làm luận án, kiến thức toán yếu, tiếng Anh lẫn tiếng Pháp cũng kém. Tôi từng rất "khổ sở" để xốc họ lên. Có người làm luận án với tôi mất 7 năm (trong khi bình thường 4 năm). May mắn là những người này đã rất chăm chỉ và cố gắng vươn lên.
Nhưng cũng phải nói, không dễ để họ trở thành những nhà nghiên cứu thật sự tốt (tất nhiên không loại trừ sau khi "giác ngộ" về mặt học thuật, họ trở nên đam mê nghiên cứu và sẽ tự vươn lên). Tôi hy vọng sẽ có một số người trở nên như thế.
Một số người, tương đối ít, đã tự học hỏi thêm để hoàn thành tốt luận án và đã trở thành những nhà nghiên cứu rất giỏi. Có người đã bắt đầu trở thành "ngôi sao" trong lĩnh vực nghiên cứu của họ.
Tôi từng vào websites của một số trường top trong ngành kinh tế ở Việt Nam. Số giảng viên làm nghiên cứu có bài đăng tạp chí quốc tế tốt rất nhỏ so với lượng giảng viên những trường ấy. Như thế làm sao có thể đào tạo được nhiều nghiên cứu sinh tốt?
- Theo giáo sư, đâu là nguyên nhân chính của tình trạng nêu trên?
- Theo tôi, chất lượng giảng dạy của rất nhiều giảng viên không tốt, giáo trình không được chấn chỉnh để những kiến thức truyền đạt cho sinh viên đạt chuẩn mực quốc tế.
Đề xuất xây dựng đại học 'hoa tiêu'
- Giáo sư đề xuất gì cho mô hình nghiên cứu tại Việt Nam?
- Mô hình đơn giản nhất là xác định mỗi khoa là một đơn vị vừa làm công tác giảng dạy, vừa nghiên cứu, vừa làm công tác quản lý.
Quá trình thăng tiến (promotion) phải dựa trên ba tiêu chuẩn: Giảng dạy, nghiên cứu, quản lý. Những người làm công tác nghiên cứu tốt có thể được giảm giờ dạy hoặc quản lý.
Nhưng đây là cách nhìn lý tưởng. Với tình hình lương bổng thời buổi bây giờ, làm sao có thể đòi hỏi giảng viên các trường công lập nghiên cứu tốt, cập nhật kiến thức để giảng dạy tốt hơn.
Giáo sư Lê Văn Cường là một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng của thế giới về kinh tế, với hàng trăm công trình nghiên cứu được đăng tải trên những tạp chí hàng đầu thế giới. |
Theo ý tôi, nên xây dựng một vài đại học kinh tế, quản trị kinh doanh, tài chính khác, quy mô nhỏ (mỗi khóa khoảng 100 sinh viên). Giáo trình phải được cập nhật để đạt chuẩn mực của các đại học trên thế giới. Đại học này tuyển thầy cô giỏi, CV phải có ít nhất 3 bài đã được đăng trên những tạp chí quốc tế chất lượng cao. Danh sách các tạp chí do đại học lập ra.
Lương giảng viên ban đầu khoảng 1.500 - 2.000 USD một tháng, hợp đồng ngắn hạn (4 năm).
Sau 4 năm, phải có ít nhất một, hai bài đăng (hoặc được nhận đăng) trên các tạp chí quốc tế chất lượng cao. Nếu không đạt tiêu chí thì sau 4 năm ngừng hợp đồng. Nếu đạt tiêu chí, hợp đồng ngắn hạn sẽ thành dài hạn (permanent).
Các đại học được phép phong phó giáo sư, giáo sư cho giảng viên. Chức danh này là chức danh của trường chứ không phải của Bộ GD&ĐT.
Nếu đại học trở nên nổi tiếng, chức danh phó giáo sư, giáo sư của trường có thể trở nên "đắt giá" hơn chức danh này của Bộ. Đây là sự cạnh tranh giữa các trường đại học theo mô hình tôi đưa ra và các trường công lập. Sự cạnh tranh này theo nguyên tắc sẽ thúc đẩy các trường công lập thay đổi về việc đào tạo, cũng như nghiên cứu).
Về lực lượng giảng viên, tôi khẳng định, hiện nay, khá hùng mạnh, ít nhất có 60 giáo sư, phó giáo sư trong và ngoài nước có lý lịch khoa học ngang tầm quốc tế.
Tổ chức International Socity of Vietnam Economists đã quy tụ được 160 thành viên là giáo sư, phó giáo sư, nhà nghiên cứu, sinh viên PhD, sinh viên Master người Việt trong và ngoài nước. Tôi có CV của những thành viên này.
Tóm lại, nhân lực cho đào tạo nghiên cứu Việt Nam đã có sẵn.
Những trường này, từ năm thứ hai trở đi sẽ giảng dạy bằng tiếng Anh (năm thứ nhất dành cho những môn đặc thù của Việt Nam: Lịch sử Đảng, Triết học Mác Lê Nin, Chủ nghĩa xã hội khoa học).
Sinh viên phải đóng học phí. Nếu ý kiến này được lắng nghe, tôi sẵn sàng tham gia thảo luận để giúp hình thành trường theo mô hình này.
Những đề xuất khả thi
- Nếu giáo sư là người có thể đưa ra quyết định 5 chính sách cấp thiết nhất cho nghiên cứu và đào tạo tại Việt Nam, đó là những điều gì?
- Việc trước tiên là đào tạo giảng viên. Cần chấn chỉnh chương trình đào tạo. Có giảng viên nhưng không đủ chất lượng để giảng dạy theo chương trình được cải tiến cũng vô bổ. Như vậy, ưu tiên là đào tạo giảng viên.
Bộ GD&ĐT đã có quyết định đúng đắn là gửi cán bộ các trường ra nước ngoài học Master, làm luận án tiến sĩ. Riêng ngành kinh tế, phải đào tại lại trước khi gửi người đi học. Lý do là hiện nay, kiến thức của nhiều người được gửi đi chưa đủ để học thành công Master hoặc hoàn thành PhD. Hoặc nếu hoàn thành được PhD thì chỉ là PhD "hữu nghị". Như thế cũng không có lợi cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy ở Việt Nam.
Những người đi học nước ngoài phải được tuyển, lựa chọn dựa trên năng lực khoa học chứ không phải vì thâm niên, cốt cán. Học bổng là tiền đóng thuế của người dân Việt Nam, không thể lãng phí.
GS thỉnh giảng ở nhiều các đại học danh tiếng trên thế giới, đặc biệt tại Nhật, Anh, Bỉ, Mĩ và Nga. |
Bộ đã dẹp các học bổng 322 cho Master và PhD. Bây giờ chỉ có học bổng 911 làm tiến sĩ ở nước ngoài. Học bổng này có thể phù hợp những giảng viên về khoa học tự nhiên, vì những masters ở Việt Nam trong lĩnh vực này có chất lượng, nên khi ra nước ngoài họ không bị hẫng.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt kinh tế, quản trị kinh doanh, kế toán, rất nhiều giảng viên có bằng Master ở Việt Nam, qua Pháp không đủ khả năng làm luận án tiến sĩ vì thiếu kiến thức.
Nhiều người bị người hướng dẫn luận án buộc đi học lại Master. Như vậy, du học sinh mất một đến hai năm trước khi thực sự làm luận án. Số tiền học bổng hai năm không ít. Rốt cuộc chỉ còn tiền cho một hai năm để làm luận án (nếu học bổng cấp cho 4 năm).
Như thế, làm sao họ thành công được (nên biết là đa số đại học Pháp đã ấn định thời gian tối đa để làm luận án tiến sĩ 4 năm).
Tôi đề nghị lập lại những học bổng giống 322 đi học Master. Nếu thành công với điểm tốt, có thể được cấp học bổng 911 (ba hoặc bốn năm để làm luận án). Như thế mới có thể bảo đảm tạo ra đội ngũ có năng lực để về giảng dạy cho các đại học Việt Nam.
Đề xuất thứ tư, tôi cũng đã nói ở trên, phải hình thành những đại học kinh tế, quản trị kinh doanh, tài chính chất lượng cao. Trong lúc giao thời, nên xây dựng một vài trung tâm nghiên cứu kinh tế, quản trị, tài chính chất lượng .
Các trung tâm ấy tuyển những người có mong muốn làm nghiên cứu trong một thời gian ngắn. Một hội đồng (gồm người Việt và người nước ngoài) sẽ duyệt đề tài nghiên cứu và CV của họ.
Những người được tuyển sẽ được cấp kinh phí để có thể tập trung nghiên cứu. Sau 2 - 3 năm, họ phải có một hay hai bài được nhận đăng trên những tạp chí quốc tế có chất lượng. Nếu họ đạt chỉ tiêu, trung tâm sẽ đề nghị kéo dài hợp đồng. Nếu không, sẽ cắt hợp đồng…
GS Lê Văn Cường (sinh năm 1946 tại Thừa Thiên Huế) là nhà kinh tế học mang hai quốc tịch Pháp và Việt.
Hiện nay, ông là giáo sư danh dự (Emeritus Chair) tại trường Kinh tế Paris (PSE), ĐH Paris I Pantheon-Sorbonne, giám đốc nghiên cứu danh dự tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học Pháp (CNRS), và giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế, Quản trị và Môi trường Việt Nam.
Ông còn là cố vấn khoa học của Hội Khoa học và chuyên gia Việt Nam tại Pháp.