Chiều 22/9, Công an huyện Lục Ngạn (tỉnh Bắc Giang) phát hiện trên tài khoản Facebook đăng video người phụ nữ dùng chân đạp một cháu bé. Cơ quan chức năng xác định người phụ nữ là B.T.N. (29 tuổi, người địa phương), còn cháu bé là T.T.V. (sinh tháng 7/2019, con ruột của N.).
Theo công an, sự việc xảy ra vào khoảng 19h ngày 20/6. Hôm đó, cháu V. làm thất lạc đồ đạc và quấy khóc. Chị N. không kiềm chế được nên đẩy ngã, dẫm đạp vào người khiến cháu bé bị gãy xương đùi phải. Hiện cháu V. đã bình phục, đi học và sinh hoạt bình thường.
Ảnh chụp cho thấy bé trai bị gãy xương đùi phải. Ảnh: Gia đình cung cấp. |
Theo xác minh của công an và trình bày của chị N., người phụ nữ có biểu hiện trầm cảm sau sinh, hiện sống cùng 2 con nhỏ, chồng đi xuất khẩu lao động nước ngoài.
Với việc có biểu hiện trầm cảm, người mẹ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Luật sư Trần Xuân Tiền (Trưởng Văn phòng luật sư Đồng Đội) đánh giá đây là vụ việc có tính chất và mức độ nghiêm trọng, gây nhiều bất bình trong dư luận xã hội. Những hành vi bạo hành trẻ em, đặc biệt với con ruột, là không thể chấp nhận và cần bị lên án.
Theo thông tin hiện có, người mẹ có dấu hiệu trầm cảm sau sinh. Tuy nhiên, cơ quan điều tra cần tiến hành xác minh, làm rõ hành vi của người mẹ cũng như căn cứ xác định bệnh của người mẹ có thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự hay không.
Theo Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, yếu tố quan trọng đầu tiên cần xác định là việc chị N. có thực sự bị trầm cảm không. Nếu có, điều này có dẫn tới việc mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi ở thời điểm thực hiện hành động hay không.
Nếu kết quả giám định cho thấy ở thời điểm đó, chị N. bị trầm cảm nghiêm trọng dẫn tới mất khả năng điều khiển hành vi, chị sẽ được miễn trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu xác định chị không bị bệnh hoặc bị bệnh nhưng không dẫn tới mất năng lực điều khiển hành vi, chị vẫn sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự.
Luật sư Trần Minh Hùng (Trưởng Văn phòng luật sư Gia Đình) cũng cho rằng yếu tố đầu tiên cần làm rõ đó là khả năng nhận thức của người mẹ. Trường hợp chị N. bị mất năng lực trách nhiệm hình sự, người phụ nữ này sẽ không bị truy cứu còn nếu không, cơ quan chức năng vẫn sẽ xem xét trách nhiệm hình sự của người mẹ này.
Bình luận về dấu hiệu hình sự trong vụ việc, ông Hùng nhận định đây là vụ việc có dấu hiệu của tội Cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015. Để có căn cứ xử lý về tội danh này, yếu tố tiên quyết cần làm rõ đó là mức độ thương tật của bé V. Việc xác định tỷ lệ phần trăm thương tật sẽ căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT của Bộ Y tế.
Hình ảnh chị N. đánh đập con trai bị camera ghi lại. Ảnh cắt từ clip. |
Theo đó, người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 11-30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 134 Bộ luật Hình sự sẽ bị xử lý về tội Cố ý gây thương tích.
Như vậy, với tình tiết định khung phạm tội đối với người dưới 16 tuổi theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 134 Bộ luật này, người mẹ sẽ chắc chắn bị xử lý hình sự nếu có đầy đủ năng lực hành vi và kết quả giám định cho thấy bé trai có tỷ lệ phần trăm thương tật.
Trường hợp thương tích dưới 11%, khung hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm còn nếu ở mức 11-30%, mức án người phạm tội đối mặt sẽ là 2-6 năm tù.
Ngoài ra, theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, trường hợp người phạm tội theo quy định tại khoản 1, Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, cơ quan công an sẽ chỉ khởi tố vụ án khi có yêu cầu của phía bị hại. Như vậy, nếu bé trai bị thương tật dưới 11% và gia đình không có yêu cầu, người mẹ sẽ được miễn trách nhiệm hình sự.
Khi đó, chị N. có thể chỉ bị xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích theo điểm a, khoản 5, Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ. Mức phạt là 5-8 triệu đồng.
Trường hợp thương tật trên 11%, cơ quan công an có thể khởi tố vụ án mà không cần tới yêu cầu của bị hại.
Như vậy, yếu tố quan trọng thứ 2 của vụ việc cần làm rõ là mức độ thương tật của bé trai. Tùy thuộc kết quả giám định tỷ lệ thương tật ở mức trên hay dưới 11%, chị N. có thể bị áp dụng các chế tài xử lý khác nhau theo quy định pháp luật.