Thời kỳ ủ bệnh
Thường kéo dài từ 5-14 ngày, trung bình là một tuần. Tiếp đến là bệnh khởi phát rất đột ngột bằng sốt cao 39-40 độ C hoặc hơn. Bệnh nhân đau đầu, đặc biệt là vùng trán, đau bụng, buồn nôn và nôn.
Ngay trong 1-2 ngày đầu của bệnh đã xuất hiện cứng gáy, tăng trương lực cơ, rối loạn sự vận động nhãn cầu. Về tâm thần kinh có thể xuất hiện lú lẫn hoặc mất ý thức. Những ngày đầu phản xạ gân xương tăng, sung huyết giãn mạch rõ. Ở một số trẻ nhỏ tuổi, ngoài sốt cao có thể thấy đi lỏng, đau bụng, nôn giống như nhiễm khuẩn - nhiễm độc ăn uống.
Thời kỳ toàn phát
Diễn ra ngắn. Do tổn thương các tế bào thần kinh ở não, khiến bệnh nhân rơi vào trạng thái hôn mê sâu với sự rối loạn các chức năng sống. Thường từ ngày thứ 3-4 của bệnh các triệu chứng của thời kỳ khởi phát không giảm mà lại tăng lên. Từ mê sảng kích thích, dần dần bệnh nhân hôn mê sâu dần.
Các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật cũng tăng lên với biểu hiện vã mồ hôi nhiều, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở. Đến ngày thứ 6-7 của bệnh xuất hiện các triệu chứng tổn thương não nói chung và tổn thương thần kinh khu trú. Bệnh nhân mê sảng, ảo giác, kích động co quắp. Trong trường hợp nặng có thể thấy co giật và cơ chi hoặc bại, liệt cứng.
Bệnh nhân rối loạn cảm nhận màu sắc và ánh sáng, thị trường bị thu hẹp. Bệnh nhân thường tử vong trong vòng 7 ngày đầu. Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này thì tiên lượng tốt hơn.
Thời kỳ lui bệnh
Đối với trường hợp vượt được qua giai đoạn toàn phát thì sang tuần thứ 2 của bệnh, nhiệt độ giảm từ sốt cao xuống sốt nhẹ và vào khoảng từ ngày thứ 10 trở đi nhiệt độ trở về bình thường nếu như không có bội nhiễm vi khuẩn khác.
Cùng với nhiệt độ, mạch cũng chậm dần về bình thường, thở không rối loạn, bệnh nhân từ hôn mê dần dần tỉnh, hết nôn và đau đầu, gáy mềm, các dấu hiệu màng não cũng trở về âm tính. Tuy tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc và hội chứng não - màng não giảm dần thì các tổn thương thần kinh khu trú lại rõ hơn trước.
Bệnh nhân có thể bại và liệt chi hoặc liệt các dây thần kinh sọ não hoặc rối loạn sự phối hợp vận động... Thời kỳ này có thể xuất hiện những biến chứng sớm như: Viêm phế quản, viêm phổi hoặc viêm phế quản - phổi do bội nhiễm; viêm bể thận, bàng quang do phải thông đái hoặc đặt sond dẫn lưu; loét và viêm tắc tĩnh mạch do nằm và rối loạn dinh dưỡng...
Những di chứng sớm có thể gặp là: Bại hoặc liệt nửa người, mất ngôn ngữ, múa giật múa vờn, rối loạn phối hợp vận động, giảm trí nhớ nghiêm trọng, rối loạn tâm thần, co cứng mất não...
Tử vong thường xảy ra trong 7 ngày đầu khi bệnh nhân có hôn mê sâu, co giật và những triệu chứng tổn thương hành não dẫn đến rối loạn hô hấp, tim mạch trầm trọng.
Tử vong ở giai đoạn sau chủ yếu do các biến chứng đặc biệt như: Viêm phổi, suy kiệt...
Những bệnh nhân qua khỏi có thể để lại những di chứng suốt đời mà hay gặp là rối loạn tâm thần.
Lời khuyên của thầy thuốc
Những người sống trong vùng có lưu hành bệnh viêm não Nhật Bản cần chủ động tiêm phòng bệnh, cần tiêm trước mùa bệnh khoảng một tháng vì kháng thể bảo vệ bước đầu chỉ được tạo thành khoảng 3 tuần sau khi tiêm.
Khi tiêm phòng viêm não Nhật Bản, tại chỗ tiêm có thể bị đau, sưng, đỏ (chiếm 5-10%). Một số có thể có phản ứng toàn thân: sốt nhẹ, đau đầu, mệt mỏi. Các phản ứng phụ nêu trên xuất hiện khoảng vài giờ sau khi tiêm và thường tự hết sau 1-2 ngày.
Phản ứng phụ thường gặp ở mũi tiêm thứ 2 hoặc thứ 3 hơn là ở mũi tiêm thứ 1. Sau khi tiêm có các biểu hiện khác thường cần được đưa ngay tới cơ sở y tế gần nhất để xử trí cấp cứu.