Đối với vaccine phòng ngừa bệnh Covid-19, hiện chúng ta có 24 loại được cấp phép sử dụng (ít nhất bởi một quốc gia). Ngoài ra, hơn 150 vaccine đang trong quá trình nghiên cứu và phát triển ở nhiều giai đoạn nghiên cứu lâm sàng khác nhau từ nhiều nơi trên thế giới.
Tuy nhiên, ngoài các thuốc sử dụng trong điều trị Covid-19 để làm giảm sốt (thuốc có chứa acetaminophen) hoặc giảm sức mạnh của cơn bão cytokine (thuốc dạng corticosteroid như dexamethasone), thuốc đặc trị virus (antiviral drug) được cấp phép sử dụng hiện nay chỉ đếm trên đầu ngón tay. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu thường gây nhiều tranh cãi về hiệu quả không rõ ràng hoặc lo ngại tính an toàn.
Điểm khác biệt giữa nghiên cứu thuốc và vaccine
Điều khác biệt giữa nghiên cứu thuốc và vaccine là do thuốc đặc trị cho virus không dễ tìm ra như điều trị vi khuẩn hoặc ký sinh trùng. Thuốc đặc trị cho virus thường là những chất có tác dụng chủ yếu lên con đường xâm nhập, biến dưỡng, sinh sản của virus để ngăn sự tấn công và phát triển trong cơ thể. Ngoài ra, chúng phải có ảnh hưởng tối thiểu đến tế bào của con người.
Tuy nhiên, virus xâm nhập vào tế bào, sử dụng vật chất trong đó để tạo ra chúng. Do vậy, việc tìm ra các chất đặc trị để không làm ảnh hưởng tế bào là rất khó, ít nhiều đều gây độc cho tế bào của chính chúng ta.
Đầu tháng 11, Anh đã cấp phép sử dụng khẩn cấp thuốc Molnupiravir của tập đoàn dược phẩm Merck của Mỹ cho điều trị Covid-19. Những người được sử dụng thuốc này là có bệnh nhẹ và trung bình, ít nhất một yếu tố nguy cơ trở nặng (như béo phì). Tổ chức FDA của Mỹ vẫn đang xem xét việc cấp phép cho thuốc này, có thể sẽ có kết quả cuối cùng vào cuối tháng 11.
Molnupiravir là thuốc trị Covid-19 dạng viên uống của hãng dược phẩm Merck (Mỹ). Ảnh: Merck. |
Hoạt chất chính trong thuốc là chất β-D-N4-hydroxycytidine (gọi tắt là NHC) triphosphate. Chất này có khả năng cạnh tranh với 2 trong 4 cơ chất khi virus tổng hợp gene của nó là C (cytidine triphosphate) và U (uridine triphosphate). Do vậy, khi có sự hiện diện của thuốc Molnupiravir, thay vì sử dụng C hoặc U, nó sẽ có xác suất dùng "nhầm" hợp chất NHC triphosphate và dẫn đến đột biến gene của virus.
Đột biến này khiến cho các protein của virus tạo ra sau đó bị hư hỏng, không sử dụng được nên sẽ không sinh sản nữa. Để dễ hình dung, việc này giống như làm hư hỏng bảng "công thức nấu ăn" của virus khiến chúng không thể nấu ra món ăn mà nó cần cho sự sống.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nhiều lo ngại về tính an toàn của thuốc vì cơ chế dựa trên "tạo đột biến" cho gene của virus. Vì vậy, chúng sẽ có xác suất nào đó virus có thể lợi dụng cơ chế này để tiến hóa thành chủng khác nguy hiểm hơn.
Ngoài ra, người ta cũng lo ngại việc thuốc này có thể làm ảnh hưởng lên chính quá trình tổng hợp gene của tế bào cơ thể chúng ta. Việc này có thể gây nên đột biến gene không mong muốn, dẫn đến ung thư. Remdesivir cũng là một loại thuốc dựa trên cơ chế này. Tuy nhiên, thay vì cạnh tranh với 2 loại cơ chất như Molnupiravir, nó chỉ cạnh tranh với một cơ chất là A (adenosine triphosphate).
Triển vọng về thuốc đặc trị Covid-19
Gần đây, hãng dược phẩm Pfizer cũng đưa ra thông báo cho một loại thuốc mới mà công ty này đang nghiên cứu. Nhà sản xuất cho biết thuốc khá triển vọng, có thể làm giảm đến 89% người mắc Covid-19 nhập viện nếu bắt đầu điều trị trong vòng 3 ngày từ khi có triệu chứng. Loại thuốc này được thiết kế dựa trên cơ chế ức chế một loại enzyme có tên là protease. Enzyme này được virus sử dụng để "cắt nhỏ" các protein được tạo ra khi virus xâm nhập tế bào. Việc này giống như xử lý các sản phẩm thô để trở thành những thành phẩm cuối cùng có thể sử dụng được trong công việc.
Do thuốc điều trị của Pfizer ngăn cản hoạt động của enzyme protease, virus sẽ không có sản phẩm protein cuối cùng có hoạt tính cần thiết cho chúng tiếp tục con đường biến dưỡng, sinh sản.
Bệnh nhân điều trị tại Trung tâm Hồi sức Covid-19 tại TP.HCM do Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức phụ trách (ngày 16/8). Ảnh: Duy Hiệu. |
Thử nghiệm lâm sàng được thực hiện trên những người không tiêm vaccine mắc Covid-19, thấy rằng điều trị thuốc trong 3 ngày từ khi có triệu chứng, chỉ có 0,8% trường hợp phải nhập viện (3 trong tổng số 389 người). Trong khi đó, nhóm giả dược có đến 7% người phải nhập viện (27 trong tổng số 385 người). Ngoài ra, không có người nào tử vong trong nhóm được điều trị bằng thuốc. Nhóm đối chứng sử dụng giả dược có đến 10 người chết.
Ở thử nghiệm song song khác nhưng bắt đầu điều trị trong vòng 5 ngày khi có triệu chứng cũng cho kết quả tương tự với tỷ lệ 1% người trong nhóm điều trị bằng thuốc phải nhập viện. Trong khi đó, có khoảng 6,7% người phải nhập viện trong nhóm đối chứng. Những người tham gia các thử nghiệm này ngoài đặc điểm không tiêm vaccine còn có ít nhất một yếu tố như tiểu đường, bệnh phổi, khiến họ có nguy cơ cao trở nặng khi mắc Covid-19.
Kết quả này có thể mở ra một hướng điều trị mới cho bệnh Covid-19. Bên cạnh đó, chúng có thể an toàn hơn các hướng điều trị ảnh hưởng cơ chế làm đột biến vật chất di truyền của virus như kể ở trên.
Nói tóm lại, nghiên cứu thuốc để điều trị virus là con đường có rất nhiều chông gai. Sử dụng thuốc cho điều trị virus cũng cần cẩn trọng, cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích trong từng hoàn cảnh. Ngoài ra, việc có thuốc đặc trị virus không làm cho vai trò của vaccine giảm bớt vì phòng bệnh vẫn luôn tốt hơn chữa bệnh.
Bài viết do TS Nguyễn Hồng Vũ, Viện Nghiên cứu ung thư, City of Hope, California, Mỹ, cung cấp thông tin.
Dịch Covid-19
Phát hiện mới về hậu quả của Covid-19
Nghiên cứu mới cho thấy Covid-19 gây hại cho hệ vi sinh vật đường ruột, có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe khác như đầy hơi và trào ngược axit.
Covid-19 vẫn gây chết người nhưng đã thay đổi về nhân khẩu học
Bang California, Mỹ, đang có sự thay đổi về nhân khẩu học trong số ca tử vong. Theo các chuyên gia, xu hướng này tương tự với toàn nước Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới.
Phát hiện virus bí ẩn giống SARS-CoV-2 ở Nga
Với protein gai có thể dễ dàng bám vào tế bào người như nCoV, loại virus này khiến các nhà khoa học lo lắng. Đặc biệt, vaccine và kháng thể Covid-19 không có tác dụng với nó.
Đại dịch mới ở những người khỏi Covid-19
Nghiên cứu mới cho thấy ngay cả người nhiễm nCoV nhẹ cũng có nguy cơ bị đau tim, đột quỵ cao hơn. Điều này dấy lên mối lo về đại dịch bệnh tim mạch ở những người khỏi Covid-19.
Triệu chứng nhiễm biến chủng BA.5
Về cơ bản, người nhiễm BA.5 sẽ có các triệu chứng như những chủng Covid-19 trước đó. Song, tần suất gặp phải của từng triệu chứng lại khác nhau.