Jordi là con trai ruột của Johan Cruyff, huyền thoại mà những di sản của ông đã trở thành bất tử, lẽ dĩ nhiên khi cậu nhóc một khi đã bước chân vào thảm cỏ sẽ phải chịu sức ép từ mọi phía. Tuổi trẻ và đầy tham vọng, Jordi tuyên bố với toàn thế giới: “Tôi muốn tất cả sẽ nhìn nhận tôi bằng những gì tôi thể hiện, không phải là con của một người nổi tiếng”.
Lời phát biểu đanh thép như một lời khẳng định và hơn 20 năm sau, Jordi miệt mài chứng minh cho lời khẳng định ấy. Tiếc thay, anh đã thất bại trong nhiệm vụ quá khó khăn.
Lật lại lịch sử môn túc cầu, Jordi tất nhiên không phải trường hợp duy nhất có người cha lừng danh.
Darren Ferguson vẫn ngồi hàng giờ trên băng ghế chỉ đạo như cái cách mà Sir Alex từng làm trong gần 40 năm. Kasper Schmeichel, khước từ lời mời gia hạn của “Bầy cáo” Leicester với mong chờ một bến đỗ lừng lẫy và chạm tay vào cú ăn ba như Peter vào năm 1999. Zidane thậm chí còn tận tay dẫn dắt và chỉ dạy cậu con trai Enzo tại Real đến cuối mùa giải 2016-2017.
Hai cha con Zidane. |
Giới chuyên gia và các nhà khoa học ưa thích đưa những trường hợp như của Johan và Jordi vào nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi về sự tác động của môi trường và di truyền đến con người. Liệu nhân tố nào đóng vai trò quan trọng hơn? Thật khó để đánh giá. Ít nhất là trong môn thể thao gắn với trái bóng tròn.
Theo bước chân của cha
Sinh ra vào một ngày tháng 2/1974, không lâu sau khi Johan chuyển từ nhà vô địch châu Âu Ajax sang gã khổng lồ Barca. Sớm định hướng cho cậu con trai duy nhất nối nghiệp bóng đá, Johan đã quyết định ghi danh Jordi vào đội trẻ Ajax khi ông trở về đội bóng quê nhà sau 8 năm.
Khi ấy, cậu bé Jordi được nhận xét vượt trội với tư duy thông minh, kỹ thuật bài bản và khả năng làm bóng tốt ở cả hai chân. Đó chính xác những gì người ta từng thấy ở "Thánh" Johan trước kia.
Tài năng có sẵn, Jordi còn nhận thêm sự hướng dẫn tận tình của người cha trong suốt những năm tháng tại Ajax hay sau này là Barca. Cựu cầu thủ 43 tuổi từng thừa nhận: “Gia đình là động lực cho tôi tiến lên. Khi mọi người xung quanh luôn ủng hộ và dõi theo, tôi không thể bỏ cuộc. Bóng đá với tôi đã là tất cả”.
Jordi Cruyff thời còn khoác áo Barca. |
2 năm chơi cho Barcelona B là đủ cho màn ra mắt đội một trong mơ vào tháng 9/1994. Bị dẫn trước bởi đội khách Racing, đó là thời điểm cần sự xuất hiện của một ngôi sao. Và ngày hôm ấy, Jordi sắm vai người hùng. Sau pha bay người ghi bàn gỡ hòa trong vòng cấm, anh còn kiếm về một quả 11 m để chuyên gia Koeman làm nốt phần việc còn lại. Barca có chiến thắng 2-1, Jordi lẫn “Thánh” Johan vui sướng tột cùng.
Vào thời điểm đó, Barca với những Ronald Koeman, Hristo Stoichkov, Pep Guardiola đặt dưới triết lý tấn công vũ bão của Johan Cruyff là nỗi khiếp sợ của toàn châu Âu.
May mắn được góp mặt trong đội hình ấy, Jordi chơi ở vị trí hộ công có màn thể hiện không tệ với 11 bàn sau 54 trận. Sau 11 danh hiệu lớn nhỏ có được bao gồm chiếc cúp C1 năm 1992, phong độ của gã khổng lồ xứ Catalan đi xuống. Sau ánh hào quang, Johan phải nhường chỗ cho Bobby Robson.
Bước ngoặt từ nước Anh
Cảm thấy không thoải mái với quyết định của đội chủ sân Nou Camp, sau kỳ Euro 1996 cùng tuyển Hà Lan, Jordi chuyển sang Man United cùng những lời hứa hẹn hấp dẫn từ Sir Alex.
Thế nhưng, đến xứ sương mù có lẽ là một trong những quyết định sai lầm nhất của Jordi. Khởi đầu không tệ với 2 bàn sau 3 trận đầu tiên tại Premier League, dù vậy, lối chơi nhanh yêu cầu nhiều thể lực tại Quỷ đỏ khiến chấn thương đầu gối đã có từ trước của Jordi khởi phát nặng nề.
Johan Cruyff từng nổi tiếng với câu nói: “Mỗi điều bất lợi đều hàm chứa cơ hội tiến lên”. Thế nhưng, với cái đầu gối nhạy cảm, con trai của ông, Jordi đã phải đầu hàng.
Tổng cộng 3 ca chấn thương dai dẳng trong 4 năm tại Old Trafford, Jordi chỉ ra sân vỏn vẹn 58 lần. Tiếc cho Jordi, “Thánh” Johan đổ lỗi cho chấn thương. Dẫu vậy, không thể chối bỏ, Jordi đã cho thấy sự kém tương thích với môi trường bóng đá nước Anh. Để tìm lại sự thừa nhận, Jordi quyết định trở về quê nhà Tây Ban Nha.
Điểm sáng lớn nhất trong 10 năm sự nghiệp còn lại của Jordi diễn ra trong năm đầu tiên chơi cho đội bóng tí hon Alaves. Năm ấy, UEFA Cup (tiền thân của Europa League sau này) chứng kiến câu chuyện cổ tích thực sự.
Vượt qua Inter, Rosenborg, Kaiserslautern, Alaves ngạo nghễ góp mặt và cùng Liverpool cống hiến một trong những trận chung kết hay nhất trong lịch sử. Jordi đóng góp một bàn thắng ở phút 88 để kéo trận đấu vào hiệp phụ.
Jordi Cruyff trong trận chung kết UEFA Cup 2000-2001 với Liverpool. |
Vậy nhưng, đẳng cấp quá chênh lệch khiến đội bóng xứ Basque không thể giữ sự tỉnh táo đến phút cuối cùng. Pha phản lưới ở phút 117 của Geli chấm dứt tất cả. Liverpool của Gerrard và Carragher chiến thắng nghẹt thở 5-4. Jordi đánh mất cơ hội sở hữu chiếc cúp châu Âu đầu tiên.
Tháng ngày sau đó chứng kiến phong độ đi xuống của cầu thủ người Hà Lan. Những đóng góp liên tục giảm song hành với đó là danh tiếng của các đội bóng mà ông thi đấu. Sau Alaves là Espanyol, Metalurg của Ukraine và cuối cùng là Valletta ở tận đất nước Maltese xa xôi. Jordi treo giày để theo nghiệp huấn luyện vào năm 2010.
Jordi Cruyff hiện là HLV của Maccabi Tel Aviv tại giải VĐQG Israel. |
Từng chơi cho hai trong số những đội bóng mạnh nhất thế giới là Barca và Man United, có 9 lần chơi cho cơn lốc da cam với một bàn ghi được tại Euro 1996, sự nghiệp của Jordi rõ ràng không hề tầm thường. Thế nhưng, đặt cạnh những gì người cha Johan làm được hiển nhiên có sự chênh lệch quá lớn. Nhắc Cruyff, người ta chỉ nhớ đến cái tên Johan mà thôi.
Sau này, khi không còn chơi bóng, Jordi cay đắng thừa nhận mình không thể xuất sắc bằng người cha Johan dù có trong tay nền tảng tốt và sự dìu dắt tận tình. Không gặp thời, chấn thương hay sức ép quá lớn có thể coi là lý do cho những ai cần một sự giải thích.
Còn với câu hỏi môi trường hay bẩm sinh, điều gì quan trọng hơn cho một tài năng bóng đá? Có lẽ đó là môi trường và câu chuyện của Jordi sau chiếc bóng vĩ đại của "Thánh" Johan là minh chứng cho nhận định ấy. Một chàng trai thừa hưởng những tố chất thiên tài của người cha nhưng chẳng thể vụt sáng sau 4 năm đáng quên tại nước Anh.