Đại dịch đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của mô hình tuần làm việc 4 ngày.Ảnh: iStock. |
Jennifer Newman từng làm việc tại một công ty quảng cáo lớn. Công ty cũ của cô đã áp dụng chế độ tuần làm việc 4 ngày trong thời kỳ đại dịch, với mục tiêu mỗi ngày làm 8 tiếng.
Tuy nhiên, hầu hết mọi người đã phải làm việc nhiều giờ hơn mỗi ngày để có thể kịp hoàn thành nhiệm vụ được giao, cô nói với Wall Street Journal.
“Tôi hơi nghi ngờ về thứ được coi là ‘vì lợi ích của nhân viên’. Suy cho cùng thì vẫn là một khối lượng công việc được nhồi nhét trong 4 ngày thay vì 5’’, cô nói.
Khó khăn khi làm việc 4 ngày
Những nhân viên làm trong lĩnh vực quảng cáo như Newman có thể gặp chút khó khăn khi phải xử lý khối lượng công việc như cũ với số ngày làm việc rút ngắn. Nhưng với nhân viên làm trong lĩnh vực phải tiếp xúc với khách hàng, điều này gần như là không thể.
Ông Mike Groves, Giám đốc điều hành của Federal Lock & Safe ở Arlington, bang Virginia, cho biết: “Tuần làm việc 4 ngày là điều khó khăn đối với ngành dịch vụ”.
Ông Groves đã tìm ra giải pháp khác để nhân viên cân bằng hơn giữa công việc và cuộc sống. Đối với các nhóm nhân viên không phải có mặt tại công ty để trả lời các cuộc gọi của khách hàng, công ty đã áp dụng chế độ làm việc 7 giờ/ngày. Nhân viên đến lúc 6h và rời đi vào khoảng 13h.
Thời gian làm việc ngắn hơn trong ngày đã cải thiện tỷ lệ giữ chân khách hàng và năng suất của nhân viên.
Tuy nhiên, ông Groves vẫn kiên định rằng công ty cần làm việc 5 ngày một tuần. “Những khách hàng gặp phải trường hợp cần được tư vấn gấp sẽ không hài lòng khi công ty nghỉ làm vào thứ 6”, ông nói.
Nhân viên trải nghiệm có nhiều ý kiến khác nhau về mức độ hiệu quả của mô hình tuần làm việc 4 ngày. Ảnh: iStock. |
Tăng năng suất
Ông Brian McNaboe, cố vấn tại Trường Kinh doanh Harvard, nhận thấy rằng hiệu suất và hiệu quả tăng lên sau một tuần làm việc ngắn hơn. Tại công ty cũ của ông ở Seattle, ông cùng ban giám đốc đã áp dụng thành công “Ngày thứ 6 linh hoạt”, trong đó nhân viên có thể chọn làm việc hoặc không làm việc vào các ngày thứ 6.
“Ban đầu, đội ngũ lãnh đạo nghĩ chỉ định áp dụng chính sách này một cách tạm thời. Nhưng rồi chúng tôi thấy nó rất hiệu quả về mặt năng suất và được nhân viên yêu thích, vì vậy chúng tôi quyết định biến chính sách này thành cố định. Nó đã và đang là một lợi thế tuyển dụng quan trọng cho chúng tôi”, ông McNaboe nói.
Phải làm nhiều hơn mỗi ngày
Đối với người lao động trong một số lĩnh vực, tuần làm việc rút ngắn khiến họ cảm thấy đau đầu hơn là được nghỉ ngơi.
Anh Sean Collier, một nhà thủy văn học làm việc cho chính quyền Las Vegas, đã làm việc theo lịch trình 4 ngày/tuần - 10 tiếng/ngày trong 15 năm qua. Anh nhận thấy tuần làm việc ngắn hơn không đáng khi phải làm nhiều giờ hơn mỗi ngày.
“Tôi đã bỏ lỡ rất nhiều bữa tối và các hoạt động ngoại khóa của các con tôi do lịch trình của tôi”, anh nói. “Nó là con dao 2 lưỡi đối với tôi. Tôi thích được nghỉ vào thứ 6, nhưng tôi biết rằng tôi sẽ cân bằng giữa công việc và cuộc sống tốt hơn nếu tôi làm việc 5 ngày 8 tiếng”.
Anh Sean Collier nói tuần làm việc ngắn hơn không đáng khi phải làm nhiều giờ hơn mỗi ngày. Ảnh: Wall Street Journal. |
Trong 2 năm qua, nhiều độc giả viết thư nói với Wall Street Journal rằng lấy thời gian làm thước đo là điều không khôn ngoan. Họ cho rằng kết quả làm việc của nhân viên mới là thước đo quan trọng nhất.
Trong khi đó, nhiều nhà lãnh đạo cảm thấy rằng số giờ làm việc là một phần quan trọng trong việc đo lường kết quả.
Ông Roy Eriksson, chủ tịch của Eriksson Technologies, một công ty thiết kế và kỹ thuật có trụ sở tại Florida nói rằng rất khó để thoát khỏi việc đo lường công việc theo thời gian. Tiền lương và năng suất phải đi đôi với nhau, và số giờ làm việc là đại diện cho điều đó, ông cho biết.
“Bạn không thể tùy tiện cắt giảm thời gian làm việc của nhân viên. Bạn phải làm sao để chuyển hóa thước đo từ số giờ làm việc sang thành năng suất cần thiết để nhận được mức lương và phúc lợi tương ứng”, ông nói.
Đọc để hiểu rõ hơn lịch sử nước Mỹ
Mục Thế giới giới thiệu cuốn sách "Lẽ thường" - cuốn sách của tác giả Thomas Paine được xuất bản lần đầu vào năm 1776 và đã có vai trò quan trọng trong thời kỳ lập quốc của Mỹ. Cho đến hôm nay, cuốn sách vẫn còn nguyên giá trị lịch sử đối với những ai quan tâm đến lịch sử nước Mỹ.