Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Ngày xuân, nói chuyện hoa mai làm thuốc

Theo dược học cổ truyền, hoa mai thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt.

Nói đến hoa xuân không thể không nói đến hoa mai. Tết đến xuân về, dẫu tiết trời giá rét, hoa mai vẫn nở trắng một màu như tuyết. Ở vùng cao, mai mọc thành rừng, nên đến mùa hoa mai nở, từng mảng trắng xóa xen giữa màu xanh của rừng núi tạo nên cảnh sắc trông thật trữ tình. Thi nhân yêu hoa mai đã đành, người thầy thuốc cũng mến chuộng loài hoa này.

Hoa mai nói đến ở đây là hoa mai trắng (bạch mai hoa), ở ta chính là hoa của cây mơ, tên khoa học là Prunus armeniaca L., còn được gọi là lạp mai, bạch mai, lạp mộc, hương mai, hoàng lạp, tuyết lý hoa... Cần phân biệt với cây mai vàng (Ochna integerrima Lour) thường được trồng làm cảnh. Cũng như đào và mận, mai có nguồn gốc từ Trung Quốc và Nhật Bản. Cây mai nhỏ, cao chừng 4-5 m, hoa mọc đơn độc ở kẽ những lá đã rụng, có cuống ngắn, màu trắng và có mùi thơm, đài hình bánh xe, 5 răng nhỏ, tràng 5 cánh mỏng, nhị nhiều xếp thành 2 vòng, bầu thượng, một ô.

Trong thành phần hóa học, hoa mai chứa nhiều tinh dầu như cineole, borneol, linalool, benzyl alcohol, farnesol, terpineol, indol... và một số chất khác như meratin, calycanthine, caroten... Nghiên cứu hiện đại cho thấy, hoa mai có tác dụng thúc đẩy bài tiết dịch mật, ức chế một số loại vi khuẩn như coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lao...

Theo dược học cổ truyền, hoa mai vị ngọt hơi đắng, tính ấm, không độc, có công dụng giải thử sinh tân, khai vị tán uất, hóa đàm, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt... Các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo nguyên thủy, Bách thảo kính, Bản thảo tái tân, Cương mục thập di, Thực vật nghi kỵ... đều đã ghi lại nhiều phương thuốc có dùng hoa mai với những kiến giải khá sâu sắc. Có thể dẫn ra một số ví dụ cụ thể như sau:

- Trúng thử gây tâm phiền, đau dầu, chóng mặt: (1) Hoa mai 9 g sắc uống hoặc phối hợp hoa mai với hoa biển đậu và lá sen tươi lượng vừa đủ, sắc uống. (2) Hoa mai 15 g, hoa cúc trắng 15 g, hoa hồng 15 g, hãm uống thay trà.

- Tăng huyết áp, cơn đau thắt ngực: Hoa mai 3 g, thảo quyết minh 10 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày.

- Mai hạch khí, đau dạ dày, viêm gan và xơ gan mức độ nhẹ: Hoa mai 5 g đem ninh với 100 g gạo tẻ thành cháo, chế thêm đường trắng, chia ăn vài lần trong ngày. Mai hạch khí là chứng cảm thấy trong họng có vật gì đó gây bế tắc, thổ không ra, nuốt không trôi nhưng không gây trở ngại cho việc ăn uống. Với chứng bệnh này người ta còn dùng hoa mai 12 g, hoa quế 3 g, trà 20 g, ba thứ trộn đều, chia làm 3 lần hãm uống thay trà.

- Chướng bụng, đầy hơi: Hoa mai 10 g, mộc hương 10 g, hương phụ 15 g, sắc uống.

- Đau bụng do lạnh: Hoa mai và chu sa liên lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, uống mỗi lần 3 - 6 g với rượu nhạt.

- Nấc: Hoa mai 5 g, tai hồng (thị đế) 5 cái, gừng tươi 3 lát, gạo tẻ 100 g. Đem gừng tươi và thị đế sắc kỹ lấy nước, bỏ bã rồi cho gạo vào nấu thành cháo, khi chín thì cho hoa mai vào, đun sôi vài dạo là được, chia ăn vài lần trong ngày.

- Nôn: Hoa mai 5 g, nước cốt gừng tươi 5 ml. Đem hoa mai hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút là dùng được, chắt ra hòa thêm nước gừng tươi rồi uống, mỗi ngày dùng 2 thang.

- Viêm họng, viêm amydal cấp tính: (1) Hoa mai 6 g, huyền sâm 9 g, bản lam căn 9 g, sắc uống. (2) Hoa mai 15 g, kim ngân hoa 15 g, thạch cao 15 g, huyền sâm 9 g, sắc uống. (3) Hoa mai 9 g hãm với nước sôi trong bình kín, uống thay trà trong ngày.

- Viêm họng mạn tính: (1) Hoa mai 6g, hoa dành dành 5g, trà 20g. Ba thứ trộn lẫn chia làm 2 lần hãm với nước sôi uống thay trà, mỗi ngày 1 thang. (2) Hoa mai và hoa ngọc trâm lượng vừa đủ đem nấu với 60g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày, mỗi ngày 1 thang.

- Ho dai dẳng: (1) Hoa mai 9 g hãm uống thay trà trong ngày. (2) Hoa mai 10 g, khoản đông hoa 10 g, gạo tẻ 60 g, tất cả đem ninh thành cháo, chế thêm một chút mật ong, chia ăn vài lần trong ngày.

- Mất nước nhiều do thử nhiệt gây phiền khát, tức ngực: Hoa mai 10 g, lá sâm 10 g, cam thảo 10 g, mạch môn 15 g, hoắc hương 6 g, sắc uống.

- Chứng chán ăn do thử nhiệt: Hoa mai 10 g, lá sen 50 g, hãm với nước sôi uống thay trà trong ngày.

- Tức ngực, khó thở: Hoa mai 10 g, đan sâm 10 g, qua lâu 15 g, sắc uống trong ngày.

- Đau khớp do phong thấp: Hoa mai 9 g, thạch nam đằng 9 g, thố nhĩ phong 9 g, đam ngâm với 200 ml rượu, mỗi lần uống 30 - 50 ml.

- Viêm kết mạc cấp tính: Hoa mai 6 g, cúc hoa 9 g sắc kỹ rồi hòa thêm một chút mật ong uống.

- Tổn thương do trật đả: Hoa mai 9 g, lá liễu 9 g, quá sơn long 9 g, đem ngâm với 250 ml rượu trắng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 50 ml.

- Vết thương chảy máu: Hoa mai 10 g đem sao tồn tính rồi tán thành bột rắc vào vết thương.

- Viêm loét môi và niêm mạc miệng: Hoa mai tươi lượng vừa đủ đem giã nát với đường trắng rồi vắt lấy nước bôi vào tổn thương.

- Loa lịch (lao hạch): Hoa mai lượng vừa đủ, trứng gà 1 quả. Dùng dao nhọn chích một lỗ nhỏ ở quả trứng rồi nhét hoa mai vào trong, đem hấp cách thủy cho chín rồi ăn, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình.

- Viêm da lở loét: Hoa mai 6 g đem ngâm với dầu lạc hoặc dầu vừng, sau 2 tuần thì dùng được, bôi vào tổn thương mỗi ngày 2 lần.

- Bỏng: Hoa mai lượng vừa đủ ngâm với dầu trà rồi bôi vào vùng bị bỏng.

Ngoài ra, trong ẩm thực cổ truyền, hoa mai còn được cổ nhân sử dụng như một loại thực phẩm để chế thành những món ăn có công dụng bổ dưỡng cường thân cùng với các loại thực phẩm khác như thịt lợn, thịt dê, hải sâm, trứng gà, cá chép, nấm hương... Như vậy, với vẻ đẹp tao nhã và hương thơm thanh khiết của mình, hoa mai không những có giá trị thẩm mỹ sâu sắc mà còn là một vị thuốc hay và một loại thực phẩm độc đáo.

http://suckhoedoisong.vn/ngay-xuan-noi-chuyen-hoa-mai-lam-thuoc-n230.html

Theo ThS. Hoàng Khánh Toàn/Báo Sức Khỏe Đời Sống

Bạn có thể quan tâm