Với tinh thần “quyết chiến quyết thắng”, hàng vạn dân công đã được huy động để vận chuyển lương thực và đạn dược ra tiền tuyến với phương tiện thô sơ. Một trong những phương tiện vận chuyển hiệu quả nhất thời điểm đó là chiếc xe đạp thồ. Chỉ riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội và dân công của ta đã sử dụng hơn hai mươi nghìn chiếc xe đạp thồ, đi dọc quãng đường trên 1.500 km.
Những "chú ngựa sắt" vận chuyển hàng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. |
Để biến một chiếc xe đạp thành xe thồ, dân công và bộ đội đã buộc thêm một đoạn tre nhỏ, dài khoảng 1 mét, gọi là "tay ngai" để điều khiển vào ghi-đông. Bên cạnh đó là một đoạn tre cao hơn yên khoảng 50 cm để cầm vừa được buộc vào trục yên xe. Đoạn tre có tác dụng vừa giữ thăng bằng vừa đẩy xe đi. Để tăng độ cứng của khung xe, dân công và bộ đội đã hàn thêm sắt, buộc thêm gỗ. Trong khi đó, vải lự, quần áo cũ, săm cũ… được dùng để “gia cố”, tăng độ bền của săm, lốp…
Thời gian đầu, mỗi xe thồ chỉ chở được 80-100 kg. Về sau, trọng tải được tăng dần lên nhờ các sáng kiến cải tiến gá, buộc. Mỗi xe thồ có thể chở được 2 thùng phuy nhiên liệu loại 150 lít hoặc 15 - 20 can loại 20 lít. Hai chiếc xe thồ “gá” lại có thể chở được 2 thương binh nặng (nằm) và 4 thương binh nhẹ (ngồi). Các xe đạp có đi-na-mô phát điện còn được sử dụng để chiếu sáng cho các thầy thuốc phẫu thuật trong đêm.
Một “chú ngựa sắt” có sức chở trung bình từ 50 - 100 kg, tương đương sức mang vác của 5 người. Xe có tốc độ nhanh hơn và có thể vận chuyển được các vật tư cồng kềnh, chất lỏng (xăng, dầu), đi được trên nhiều loại đường, địa hình khác nhau mà ôtô không đi được.
Lợi thế của loại phương tiện này là không cần nhiên liệu, dễ sửa chữa, ngụy trang và có thể đi lẻ hoặc thành đoàn trong mọi điều kiện thời tiết. So với vận tải bằng gánh gồng, mang vác, xe đạp thồ cũng chiếm ưu thế hơn hẳn.
So với một dân công gánh trung bình 25 kg thì một xe đạp thồ có năng suất gấp 7 – 8 lần. “Kỷ lục” vận chuyển bằng xe đạp thồ thuộc về chiến sĩ dân công Cao Văn Tỵ (đoàn Thanh Hóa) với 320 kg/chuyến. Sau đó, chiến sĩ Ma Văn Thắng (đoàn Phú Thọ) vượt lên, có chuyến chở 325 kg hàng, tức là gấp 13 lần một người gồng gánh.
“Binh chủng xe đạp thồ” được biên chế thành từng đoàn theo địa phương. Mỗi đoàn có nhiều trung đội, mỗi trung đội từ 30-40 xe, chia thành các nhóm khoảng 5 xe để hỗ trợ nhau khi qua đèo, vượt dốc cao. Mỗi đoàn xe thồ có một xe chuyên chở đồ nghề, phụ tùng thay thế, bếp than để sửa chữa và vá chín. Dọc đường, “xưởng sửa chữa lưu động” này sẵn sàng thay lốp, lên vành, hàn khung để bảo đảm toàn đội không bị rơi rớt. Đêm đi, ngày nghỉ. Chiều chiều xe đã được bảo dưỡng, ra trạm nhận hàng rồi “binh đoàn ngựa sắt” lại lên đường.
Nói về lực lượng vận tải thô sơ của ta, trong cuốn “Trận Điện Biên Phủ”, ký giả G. Roa đã viết: “Đã có hàng trăm tấn bom được ném xuống các tuyến giao thông và những con đường tiếp vận của quân đội nhân dân Việt Nam nhưng chẳng bao giờ cắt đứt nổi những con đường ấy… Tướng Nava bị thua chính là những chiếc xe đạp thồ với những kiện hàng từ 200 đến 320 kg, được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên những mảnh ni-lông trải trên đất".
Đội quân xe đạp thồ xuất hiện ở Điện Biên là một điều kỳ diệu chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, không chỉ ở Việt Nam mà cả lịch sử chiến tranh thế giới. Đây là minh chứng sinh động cho tinh thần và ý chí quyết tâm không có gì lay chuyển được của một dân tộc trên con đường tìm lại độc lập tự do.