TAND Hà Nội dự kiến xét xử phúc thẩm vụ án hôn nhân và gia đình về ly hôn vào ngày 26/8. Phiên tòa được mở theo kháng cáo của bị đơn là ông N.Q.C. (sinh năm 1973, trú quận Long Biên) và nguyên đơn là bà Đ.T.A. (sinh năm 1981, vợ ông C.).
Bản án sơ thẩm hồi tháng 5 của TAND quận Long Biên cho thấy ông N.Q.C. kết hôn với bà Đ.T.A. năm 2013. Lúc đó, mỗi người đã có một con riêng và sống cùng nhau sau khi ông bà này kết hôn.
Tháng 11/2013, họ mua căn hộ trong tòa cao ốc ở phường Gia Thụy, Long Biên, với giá hơn 1,6 tỷ đồng. Ông C. cho rằng tiền mua nhà do vợ chồng góp lương, thưởng, vay mượn và cầm cố sổ đỏ của người thân.
Đến tháng 9/2019, ông C. và bà A. mua thêm căn hộ thứ 2 trong khu đô thị ở huyện Gia Lâm, Hà Nội theo hình thức trả góp trong 30 năm. Ngoài những tài sản trên, họ có tài sản chung là chiếc ôtô Mazda.
Tòa chia 2 căn hộ cho người vợ, ông C. không còn nơi ở nên kháng cáo. |
Quá trình chung sống, vợ chồng ông C. phát sinh mâu thuẫn nên giữa năm 2021, bà A. nộp đơn đề nghị ly hôn cho TAND quận Long Biên. Sau nhiều lần hòa giải bất thành, ngày 25/5, tòa sơ thẩm xử cho ông C. và bà A. thuận tình ly hôn.
Về dân sự, tòa án đánh giá tổng tài sản chung của vợ chồng ông C. là hơn 4,2 tỷ đồng. Bà A. có công sức đóng góp nhiều hơn nên tòa phán quyết chia 2 căn hộ chung cư (tương đương 60% giá trị tổng tài sản) cho bà A, còn ông C. và con riêng được chia chiếc Mazda (tức 40% còn lại).
Ngoài chia tài sản, tòa xác định trước khi ly hôn, vợ chồng ông C. có tổng số nợ là hơn 2,3 tỷ đồng. Nghĩa vụ trả nợ của 2 người được chia đôi, tương đương gần 1,2 tỷ đồng mỗi người. Như vậy, ông C. còn bị buộc trả thêm cho bà A. hơn 230 triệu đồng. Đây là số tiền mà nguyên đơn đã trả nợ trong thời gian ly thân.
Không đồng ý với phán quyết sơ thẩm, ông C. đã kháng cáo, kiến nghị cấp phúc thẩm xem xét tuyên theo hướng chia một trong 2 căn hộ (là tài sản chung) cho bố con ông này để làm nơi sinh sống do họ đang không có nhà ở. Theo bị đơn, bản án sơ thẩm không đảm bảo quyền có chỗ ở cho ông, nhất là con trai của ông C. đang trong độ tuổi trưởng thành, dễ bị tác động, ảnh hưởng bởi ngoại cảnh.
Bị đơn cũng kiến nghị tòa phúc thẩm định giá lại 2 căn hộ chung cư nói trên, định giá và phân chia tài sản, trang thiết bị, nội thất, đồ dùng trong các căn hộ. Đây là những nội dung mà bị đơn cho rằng cấp sơ thẩm chưa thực hiện.
Trong khi đó, nguyên đơn là bà Đ.T.A. kháng cáo, mong muốn tòa phúc thẩm buộc ông C. tiếp tục chịu trách nhiệm cùng bà A. trả nợ 650 triệu đồng. Bà cho rằng đây là khoản nợ mà họ cùng vay mượn trước đây. Về việc này, ông C. lập luận trong đơn kháng cáo rằng đó là số nợ mà bà A. vay của 2 người khác. Ông C. không biết nguyên đơn vay 2 khoản nợ, không chứng kiến và không ký giấy tờ vay, nên không phải chịu trách nhiệm trả.