
Đầu những năm 2000, hình ảnh một người phụ nữ Việt Nam nhỏ bé tranh luận mạnh mẽ trong phiên điều trần tại Mỹ đã trở nên quen thuộc với truyền thông quốc tế. Bà đấu tranh để đòi quyền lợi cho hàng chục nghìn nạn nhân chất độc da cam/dioxin.
Không chỉ là một nhà hoạt động kiên cường, bà còn đặt nền móng cho kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại Việt Nam, mang lại hy vọng làm cha mẹ cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn. Với những đóng góp to lớn, bà vinh dự nhận giải thưởng Ramon Magsaysay, được mệnh danh là Nobel châu Á.
Nhân ngày 8/3, Tri Thức - Znews trò chuyện cùng GS.TS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM), về hành trình cống hiến không mệt mỏi của bà.
Cú sốc của cô gái đôi mươi
- Cơ duyên nào đưa GS đến với giải thưởng Ramon Magsaysay?
Tôi hoàn toàn bất ngờ khi được thông báo mình nhận giải thưởng này.
Tôi đã đi tìm lời giải đáp cho những người Việt Nam khi sinh ra mang những dị tật khủng khiếp, từ hàng chục năm trước. Sau quãng thời gian miệt mài đấu tranh, tôi không nghĩ một tổ chức nào đó sẽ ghi nhận sự cống hiến của mình, tôi chỉ mong các em có được quyền lợi chính đáng.
![]() |
GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng nhận giải thưởng Ramon Magsaysay tại Philippines vào tháng 11/2024. |
Khi tôi sang Philippines nhận giải, mới biết rằng họ đã theo dõi hành trình của mình từ khoảng 7 năm trước, thu thập tài liệu và tìm hiểu về công việc mà tôi làm. Điều đó khiến tôi rất vui, chí ít trên chặng đường đi tôi không hề đơn độc.
- Giải thưởng này có ý nghĩa như thế nào đối với bà?
- Khi một giải thưởng lớn, uy tín đã ghi nhận những điều mình làm thì đồng nghĩa họ công nhận những điều đó là đúng. Thật sự chất độc dioxin mà người Mỹ rải trong chiến tranh Việt Nam, có ảnh hưởng kinh hoàng lên người dân ở đất nước này, gây ra những khuyết tật bẩm sinh, những bất thường trong sinh sản.
Một khi họ công nhận điều đó đúng, nạn nhân chất độc da cam sẽ được quan tâm nhiều hơn. Họ là những người bị ảnh hưởng trực tiếp, cuộc sống rất khó khăn cần được giúp đỡ.
- Điều gì khiến bà quyết tâm đi tìm lời giải đáp cho nạn nhân chất độc dioxin?
- 60 năm về trước, tức 1965, lúc đó tôi mới 21 tuổi, đang là sinh viên Đại học Y Dược TP.HCM và thực tập tại Bệnh viện Từ Dũ. Trong đêm trực ở bệnh viện, có một ca sinh mổ cần tôi tham gia. Đỡ đứa trẻ còn đỏ hỏn trên tay, tôi hốt hoảng và lo sợ bởi hình ảnh trước mắt. Lần đầu tiên tôi đỡ đẻ cho một đứa bé vô sọ.
Người tôi run lên, mồ hôi trán ứa ra nhưng phải bình tĩnh để trấn an tinh thần người mẹ. Suốt một tuần sau đó, tôi nôn ói liên tục, cứ nhắm mắt, hình ảnh đứa bé đó lại chạy ngang não. Tôi không thể ăn, chẳng thể ngủ.
![]() |
Hình ảnh bác sĩ Phượng đang đỡ đẻ cho một thai phụ. |
Tuy nhiên, sự hoảng sợ của tôi chẳng thấm thía gì so với nỗi đau của người mẹ ấy. Mỗi ngày vào thăm sản phụ, tôi chứng kiến cảnh họ đau khổ quằn quại với nỗi đau kép. Vừa sinh con dị tật, người phụ nữ này vừa phải gánh trên vai tiếng oan là “thất đức như thế nào mới sinh ra một đứa con như vậy”. Tôi thấy xót xa.
Tôi trực ở bệnh viện từ năm 1963, việc này chưa từng xảy ra, nhưng từ năm 1965 lại xuất hiện rất nhiều ca dị tật bẩm sinh khi vừa chào đời. Trách nhiệm của một người bác sĩ thôi thúc tôi đi tìm câu trả lời cho sự việc này.
- Bà đã làm gì để tìm được câu trả lời?
- Tôi quan sát trong nhiều năm và tìm tài liệu về việc này, ghi nhận nhiều loại khuyết tật cứ lập đi lặp lại. Đến năm 1976, những cựu chiến binh Mỹ trở lại thăm Việt Nam, họ đến Bệnh viện Từ Dũ và hỏi về chuyện khuyết tật bẩm sinh và ung thư. Tôi cay đắng nói “không biết lý do”.
Tôi tiếp tục tìm tài liệu ở thư viện thành phố, bệnh viện và trường đại học, nghiên cứu thêm sách báo. Tôi nhận ra tỷ lệ trẻ sinh ra bị khuyết tật những năm đó có tăng ở Bệnh viện Từ Dũ - lúc này là bệnh viện lớn nhất phía Nam.
![]() ![]() |
Cặp song sinh Việt - Đức là nạn nhân của chất độc dioxin, được các bác sĩ mổ tách rời năm 1988. |
Tôi đọc được cuốn sách do Viện khoa học hàn lâm Mỹ xuất bản năm 1974 nói về những đợt rải chất độc hoá học ở Việt Nam. Từ năm 1960 trở đi, Mỹ có trải chất độc dioxin với hàm lượng ít, nhưng đến năm 1965 thì lượng rải tăng lên rất nhiều.
Lúc này tôi nghĩ, liệu 2 dữ kiện này có liên quan đến nhau hay không, tôi cùng nhóm bác sĩ trẻ và sinh viên đi nghiên cứu thêm. Năm 1982, đoàn chúng tôi đến Bến Tre, Cà Mau, Cần Giờ - những nơi trước đây bị rải chất hoá học rất nhiều.
- Bà đã thấy gì ở đó?
- Đi dọc trên con đường làng, tôi thấy những đứa trẻ sứt môi, chẻ vòm hầu. Các em có độ tuổi 15-17, nhưng không thể đi học, chúng ít khi ra đường vì sợ ánh nhìn của người khác.
Không đành lòng nhìn các em bị chôn vùi tương lai, tôi xin bệnh viện một chiếc xe, đưa khoảng 16-17 em lên TP.HCM. Tại bệnh viện, tôi mời các chuyên gia phẫu thuật, vá môi, tái tạo lại hình dạng cho các em.
Sau ca mổ, các em trở về quê trong niềm vui của gia đình, với vết hở đã được khép lại, không còn mặc cảm như trước. Nhưng nghĩ đến những đứa trẻ mang khuyết tật nặng nề hơn, tôi lại thấy lòng nặng trĩu - chắc hẳn nỗi ám ảnh trong các em còn lớn hơn rất nhiều.
![]() |
Bác sĩ Phượng và các em nhỏ tại làng Hòa Bình, Bệnh viện Từ Dũ. |
Tôi quay về bệnh viện, tiếp tục nghiên cứu thêm. Kết quả cho thấy những người sinh con khuyết tật, tỷ lệ bị phơi nhiễm dioxin là 64%. Ngược lại, những người bị phơi nhiễm dioxin, tỷ lệ sinh con khuyết tật rất cao. Cả hai chiều đều cho thấy dioxin có liên quan đến việc sinh con khuyết tật.
Trong nghiên cứu của các nước khác như Pháp, Mỹ, Đức, Australia, New Zealand cũng cho ra kết quả tương tự. Ngay cả những nhà khoa học Mỹ cũng thấy điều đó đúng.
Như vậy, mối quan hệ giữa chất độc da cam với khuyết tật bẩm sinh, sảy thai bẩm sinh, thai chết lưu gần như được khẳng định là có.
Đi tìm công lý cho những đứa trẻ bất hạnh
- Bước tiếp theo là đi tìm người chịu trách nhiệm và buộc họ bồi thường cho những tổn thương đã gây ra đúng không?
- Tôi làm điều này ngay lập tức.
Vào tháng 1/2004, Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam được thành lập. Tôi được giao làm phó chủ tịch hội, cùng ban lãnh đạo thay mặt những nạn nhân chất độc da cam đi kiện những công ty hóa chất của Mỹ.
Năm 2007, tôi tham dự hội nghị của các nhà nghiên cứu dịch tễ học, hơn 14.000 người tham dự ở Washington, D.C. (Mỹ). Tôi báo cáo từ sáng đến chiều, suốt một tuần.
Trong phiên họp cuối cùng, họ thông qua một biên bản công nhận chất độc hoá học da cam gây ra khuyết tật bẩm sinh, sảy thai. Họ khuyến nghị Chính phủ Mỹ cùng với các công ty hóa chất phải cung cấp đầy đủ nguồn lực để các nạn nhân chất độc da cam khuyết tật được học hành, phục hồi chức năng, dạy nghề và được điều trị bệnh. Giúp những nạn nhân này tái hòa nhập cộng đồng.
- Sau phiên họp đó, bà đã làm gì để đưa tiếng nói của các nạn nhân ra thế giới?
- Sau đó là chuỗi ngày tôi đi điều trần, tham dự các phiên tòa quốc tế liên tục. Năm 2008, tôi đi điều trần ở Hạ viện Mỹ, đến 2009 tiếp tục tham dự tòa án lương tâm quốc tế ở Paris (Pháp).
Tôi dự tòa án quốc tế để thay mặt những nạn nhân tố cáo việc rải chất độc hóa học gây ra ảnh hưởng trên sinh thái rừng già, rừng ngập mặn, rừng rậm, huỷ diệt môi trường và phá hủy sức khỏe của người dân. Nhất là ảnh hưởng vấn đề sinh sản của người phụ nữ.
![]() |
GS Phượng tham gia những chương trình kêu gọi hỗ trợ cho nạn nhân chất độc da cam. |
Đến năm 2010, tôi qua lại Mỹ điều trần một lần nữa. Sau đó, bên cạnh Hội nạn nhân chất độc da cam, Việt Nam và Mỹ thành lập thêm Uỷ ban đối thoại Việt - Mỹ. Uỷ ban này có nhiệm vụ đối thoại, thương lượng tiến đến thống nhất tẩy rửa các khu vực còn chất độc da cam ở Việt Nam. Đầu tiên là sân bay Đà Nẵng, Phù Cát (Bình Định), Biên Hòa (Đồng Nai), sau đó là 25 điểm còn chất độc dioxin khác.
Thông qua uỷ ban này, Mỹ đã viện trợ hơn 3 triệu USD để thành lập phòng xét nghiệm chất dioxin trong môi trường, trong cơ thể người. Hiện nay, mỗi năm Chính phủ Mỹ vẫn viện trợ để tẩy môi trường và hỗ trợ cho những trẻ em khuyết tật.
- Trong những phiên điều trần, bà đã “cãi” thắng bằng cách nào?
- Tôi thấy vô lý khi những người dân vô tội phải nhiễm chất độc da cam và sống cuộc đời khốn cùng.
Tôi đã đưa ra bằng chứng “thép” cho họ thấy rằng những nạn nhân đã trải qua những gì. Trong mẫu sữa xét nghiệm ở người mẹ sinh con dị tật bẩm sinh, hàm lượng dioxin lên đến 1.850 PPT. Trong khi đó, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo mỗi người lớn chỉ được nhiễm tối đa 200 PPT.
Tôi thấy rùng mình khi đứa trẻ vừa mới sinh ra, mỗi ngày phải uống 30-80 ml sữa, nhưng trong mỗi ml sữa đó có chứa đến 2.000 PPT. Như vậy, đứa trẻ này lớn lên sẽ mang đủ thứ khuyết tật, đủ thứ bệnh do chất độc dioxin mà nó không hề có lỗi gì.
Tôi hỏi một nghị sĩ Mỹ: “Nếu đứa bé đó là con của ông, vừa chào đời đã phải nuốt vào cơ thể hàng chục nghìn chất dioxin mỗi ngày, ông sẽ cảm thấy thế nào?” Và chính từ những câu hỏi như vậy, câu chuyện viện trợ từ Chính phủ Mỹ bắt đầu.
![]() |
GS Phương còn là người khởi xướng chương trình "Ươm mầm hạnh phúc", hỗ trợ chi phí IVF cho hàng trăm cặp vợ chồng hiếm muộn. Ảnh: BVCC. |
- Đây có phải là cái kết có hậu mà bà hy vọng?
- Cả môi trường và con người đều được hỗ trợ là thứ tôi mừng nhất. Nếu như ở Đà Nẵng, Phù Cát, Biên Hoà không được tẩy sạch môi trường, những ao hồ còn nhiều chất dioxin, người dân vẫn ăn cá tôm và dùng nước ở đây thì không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra. Và những thế hệ sau có lẽ phải tiếp tục gánh chịu những đau thương.
Tuy nhiên, còn nhiều điểm nhiễm dioxin ở Việt Nam cần tẩy rửa, tôi sẽ chuyển giao trách nhiệm tiếp tục đấu tranh cho thế hệ trẻ. Tôi hy vọng các y bác sĩ trẻ sẽ tiếp tục cống hiến cho người dân, tiếp tục tìm lại sự công bằng cho họ, thực hiện những dự án mà tôi chưa thể làm.
GS.TS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, sinh năm 1944 tại Biên Hòa (Đồng Nai), là một trong những nhà y khoa nổi tiếng của Việt Nam. Bà hiện là Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, từng giữ chức Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ và Viện trưởng Viện Tim TP.HCM. Bà cũng là người đầu tiên thực hiện thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tại Việt Nam. Cuộc đời bà gắn liền với danh xưng “bà tiên”, bởi đã mang lại hạnh phúc cho biết bao gia đình hiếm muộn
Không có nghề nào tuyệt vời hơn nghề y
Nghề bác sĩ vất vả về mặt thời gian, tổn hao nhiều năng lượng và cảm xúc. Thế nhưng, trên thế gian này, không có nghề nào tuyệt vời hơn nghề y. Chạy trời không khỏi đau là tập hợp các ghi chép của tác giả Adam Kay trong 6 năm hành nghề y từ 2004 đến 2010, cuốn sách là bản báo cáo không khoan nhượng về công việc của đội ngũ y tế của Vương quốc Anh đang làm việc ngày đêm nhưng chưa được nhìn nhận và tôn trọng đúng mức.