Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Nữ giám đốc 'cõng' án tù oan dài nhất Việt Nam

Nếu hai bản án của TAND tỉnh Thanh Hóa không bị kháng nghị giám đốc thẩm, có lẽ bị án Mai Thị Chung sẽ là người phải thụ án oan với thời gian kỷ lục ở Việt Nam (45 năm, 6 tháng tù)

Mới đây, TAND tối cao đã chỉ ra những sai sót nghiêm trọng của tòa cấp sơ thẩm khi "quên" không tổng hợp hình phạt của hai bản án, đồng thời vạch rõ nhiều dấu hiệu cho thấy, Mai Thị Chung đã bị "hình sự hóa" quan hệ dân sự.

Trình bày với phóng viên về nỗi oan khuất của con gái là Mai Thị Chung, ông Mai Huy Liệu (70 tuổi, quê Thanh Hóa) cho biết, tháng 2/2009, Chung bị TAND tỉnh Thanh Hóa tuyên phạt 15 năm 6 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức.

Tháng 6/2009, tòa tiếp tục tuyên Chung 30 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, HĐXX đã không tổng hợp hình phạt của hai bản án này nên Chung phải lĩnh tổng cộng 45 năm 6 tháng, trong khi luật quy định tổng hợp hình phạt trường hợp này là 30 năm tù.

Án có hiệu lực, Chung đi cải tạo được hai năm thì hai bản án trên bị giám đốc thẩm xử hủy theo hướng các giao dịch dân sự của người phụ nữ này có dấu hiệu bị "hình sự hóa".

"Hình sự hóa" quan hệ dân sự 

Trong quá trình kinh doanh, đến tháng 5/2007, Chung nợ 2,5 tỷ đồng của 12 người. Cho rằng bị cáo sử dụng tiền đi vay, tiền bán xi măng (được mua trả chậm) để đánh bạc, chơi lô đề... dẫn đến mất khả năng trả nợ và còn có ý định…bỏ trốn, Chung bị khởi tố, truy tố và xét xử về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Trước việc kết tội này, kháng nghị và quyết định giám đốc thẩm đã nêu rõ, việc quy kết Chung có hành sử dụng tiền vay được vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ là chưa có căn cứ vững chắc. Tuy Chung có lời khai ban đầu rằng, số tiền có được do bán xi măng, tiền vay…đã "nướng" vào lô đề, cờ bạc và chứng khoán nhưng hồ sơ vụ án lại không có tài liệu nào khác để xác định về tính chính xác của lời khai.

Không chỉ  dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội, tòa cấp sơ thẩm còn bỏ qua lời khai chối tội (từ tháng 4/2008) của Chung rằng, không hề có chuyện đánh bạc và trốn nợ như lời khai “bị điều tra viên xui” trước đó.

Đáng lưu ý, trong số 12 khoản nợ, tính đến ngày khởi tố vụ án (9/5/2007) và ngày Chung bị bắt (12/5/2007), còn rất nhiều khoản chưa đến hạn trả hoặc không xác định thời hạn trả nợ. Khi điều tra lại, cơ quan công an cũng không lấy lời khai của những người liên quan để làm rõ việc Chung có sử dụng tiền vay được để đánh lô, đề hay không.

Tuy tòa sơ thẩm có trong tay cuốn sổ Chung ghi chép, thể hiện từ tháng 1/2006 đến tháng 2/2007, bà này có thua gần 1,3 tỷ tiền lô đề (chủ yếu là trong năm 2006), nhưng ngược đời ở chỗ, các khoản nợ và mua xi măng trả chậm mà tòa xử bà ta tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lại chỉ diễn ra vào khoảng tháng 3, tháng 4/2007. 

Rõ ràng, Chung không thể cầm tiền của các bị hại để sử dụng vào việc trong thời điểm Chung không hề vay tiền, cầm tiền của những người này. 

Ngoài tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thì Chung còn bị TAND tỉnh Thanh Hóa kết án 15 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do có hành vi sửa chữa 8 bản Fax và viết 5 phiếu nhận hàng để đến công ty xi măng Bỉm Sơn nhận hơn 3.100 tấn xi măng (trị giá 2,2 tỷ) dưới danh nghĩa vận chuyển cho chi nhánh công ty này tại Thái Bình. Sau đó, Chung đã không vận chuyển tới chi nhánh tại Thái Bình mà bán luôn tại Thanh Hóa, chiếm đoạt tiền của công ty xi măng Bỉm Sơn.

Tại bản kháng nghị và Quyết định giám đốc thẩm, TAND tối cao và VKSND tối cao đều cho rằng, bị hại trong vụ án không phải là công ty xi măng Bỉm Sơn. Hơn 3.100 tấn xi măng là của chi nhánh Thái Bình, đã được quyết toán với công ty. Chi nhánh Thái Bình đã được công ty thông báo và biết việc Chung nhận xi măng cho mình. Bản thân giám đốc chi nhánh đa liên lạc với bà này và đồng ý để Chung bán xi măng ở địa bàn Thanh Hóa thu tiền nộp cho chi nhánh. 

Sau khi tự bán xi măng, Chung đã nộp 1,2 tỷ về cho chi nhánh. Số tiền còn lại, hai bên đã xác nhận nợ với nhau bằng văn bản, hẹn chót trả tiền vào 30/5/2007. Tuy nhiên, khi chưa đến hạn này thì Chung đã bị bắt. Chủ nợ cũng không hề có đơn tố cáo Chung “xù nợ”

Người bị “tố” vẫn được coi là “nhân chứng”

Trong tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ngoài 7 bị hại là cá nhân thì Chung còn bị TAND tỉnh Thanh Hóa cáo buộc chiếm đoạt của công ty xi măng Bỉm Sơn gần 3.200 tấn xi măng đã nhận cho chi nhánh Thái Bình, nhưng lại bán luôn tại Thanh Hóa.

Ngoài việc xác định công ty xi măng Bỉm Sơn không phải là bị hại của vụ án và không có dấu hiệu Chung sử dụng số tiền bán xi măng để đánh bạc, TAND tối cao và VKSND tối cao còn đánh giá, trong tổng số xi măng mà Chung đã nhận với danh nghĩa chi nhánh Thái Bình (hơn 6.300 tấn) thì Chung bán cho bà Mai Thị Ngoát (thị xã Bỉm Sơn) trên 3.400 tấn, thành tiền hơn 2,3 tỷ. Tuy nhiên, bà Ngoát đã chiếm giữ số tiền này mà không trả cho Chung với mục đích để “trừ nợ”. 

Việc chiếm giữ tiền này là không đúng quy định và là một trong những nguyên nhân khiến Chung chưa thể thanh toán tiền cho chi nhánh Thái Bình. Do vậy, cần xem xét để buộc bà Ngoát phải trả số xi măng này cho chủ sở hữu, đồng thời người phụ nữ này phải được coi là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan mà không phải là người làm chứng trong vụ án.

Tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm lần 2 (11/2013), TAND tỉnh Thanh Hóa vẫn không đề cập đến trách nhiệm của bà Ngoát và vẫn coi bà này là nhân chứng của vụ án. Trong khi đó, Chung còn khai rằng, người phụ nữ này đã làm giả một số bản fax và Phiếu đăng ký nhận xi măng để bị cáo vào công ty xi măng Bỉm Sơn nhận hàng cho chi nhánh Thái Bình. Còn bà Ngoát chỉ thừa nhận mình viết trên 3 Phiếu đăng ký nhận xi măng với lý do “nhân viên công ty nhờ sao lại cho dễ đọc” và chối bỏ việc đồng phạm với Chung.

 

http://baophapluat.vn/nhip-cau-cong-ly/nu-giam-doc-cong-an-tu-oan-dai-nhat-viet-nam-186297.html

Theo Khoa Lâm/ Pháp Luật Việt Nam

Bạn có thể quan tâm