“Số phận con đã không may,
Kiếp hoa tàn héo đọa đày truân chuyên,
Tóc xanh gởi (gửi) lại mẹ hiền
Đời con khép kín cửa thiền từ đây”.
Câu vọng cổ của nhân vật The khép lại vở cải lương Nửa đời hương phấn. Song, điều đó để lại dư âm dằn vặt trong lòng khán giả.
Cái nghèo đói, thiếu học đẩy những con gái lỡ lầm vào con đường “bán phấn buôn hương”. Đến khi muốn quay đầu, cô bị ngăn chặn bởi “lễ giáo gia đình”. Cuối cùng, cô gái trẻ chọn cách đi tu đến cuối đời.
Vốn được hai cố soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng sáng tác từ đầu những năm 1950. Đến nay dù hơn 70 năm trôi qua, Nửa đời hương phấn vẫn giữ nguyên giá trị nhân văn vốn có.
Hai cố nghệ sĩ tài danh Út Bạch Lan (trái) và Thanh Nga thành công với hình tượng cô The, cô Hương trong Nửa đời hương phấn. |
Tấn bi kịch của những “cô gái giang hồ”
Nửa đời hương phấn kể về cuộc đời lận đận của cô gái quê tên The. Vì nghèo khó, cô rời quê lên Sài Gòn lập nghiệp. Nơi xứ lạ quê người, cô gặp Định - kẻ tự xưng văn nghệ sĩ nhưng thực chất là gã sở khanh, chuyên lừa gạt gái nhà lành, sau đó đẩy họ vào con đường “bán phấn buôn hương”.
Đến khi nhận ra, The (cô đổi tên thành Hương) đã mang trong mình số nợ khổng lồ, phần vì bị Định gạt, phần phải gửi tiền về cho cha mẹ. Cô quyết định rời khỏi tên Định, làm đủ nghề để trả nợ cho bà Hai - kẻ cho vay ăn lời cắt cổ ở thị thành.
Trong lúc đó, Hương vô tình gặp Tùng - sinh viên vừa tốt nghiệp, có công việc làm ổn định. Hai người nảy sinh tình cảm và có ý định kết hôn.
Trong lúc gửi thư về cho cha mẹ báo tin mừng, Hương bị anh hai của Tùng là Cang đến ngăn cấm và dùng tiền để yêu cầu cô không được tiếp cận em trai mình. Hương tưởng đâu đời mình được cứu vớt, cuối cùng cô phải lần nữa trở về nghề cũ, sống cuộc đời lang bạt.
Vở Nửa đời hương phấn được nhiều thế hệ nghệ sĩ thể hiện. |
Trong lúc thất tình, Hương về quê thăm gia đình. Tại đây, cô gặp Định - kẻ hại đời mình - đang tiếp tục dụ dỗ em gái cô là Diệu. Cô ra sức ngăn cản em gái và bị Định lần nữa hãm hại. Bà Hai từ Sài Gòn về Lái Thiêu, Bình Dương đòi nợ và tiết lộ mọi chuyện với cha của Hương - mẫu người điển hình của lối “hủ nho phong kiến”.
Hương nhanh chóng bị đuổi ra khỏi nhà dù được mẹ ra sức năn nỉ.
Bi kịch tiếp tục ập đến khi Hương đến thăm nhà Tùng. Tại đây, cô gặp lại em gái. Diệu lúc này đã là vợ của Tùng. Câu chuyện tình chị duyên em khiến người xem nhớ lại tuyệt tác văn học Truyện Kiều của Nguyễn Du. Những người con gái lầm lỡ đều có số phận đáng thương.
Sau khi trở về, Hương quyết định đi tu.
Trước đó, Tùng hết lời mắng chửi người yêu cũ vì tưởng bị cô phụ bạc. Nhưng khi được anh hai giải thích Hương đã hy sinh cho hạnh phúc của Tùng, anh thấy có lỗi và liên tục tìm đến cửa thiền môn để gặp tình cũ.
Diệu thấy chồng liên tục ra vào cửa chùa lại tưởng anh bị loạn trí, theo đuổi ni cô áo vải. Đến khi nhận ra người sư cô Tùng tìm đến là Hương, cả gia đình lại vỡ òa cảm xúc. Diệu và mẹ cô ôm chị gái vì mất tung tích bấy lâu.
Dù được nhiều lời khuyên ngăn, Hương vẫn quyết định chọn con đường nương nhờ cửa Phật. Cô chúc phúc cho em gái và bước đi vào trong, với tiếng chuông chùa để lại nỗi đau cho người ở lại.
Cuộc sống, tình yêu của cô gái trẻ đã bị cái nghèo, cái đói và cả những hủ tục phong kiến, lễ giáo gia đình khắt khe đẩy vào đường cùng.
Chất nhạc - thơ trong vở cải lương kinh điển
Trong giới cải lương, hai tác giả Hà Triều - Hoa Phượng vốn là bậc thầy trong việc sáng tạo những kịch bản ăn khách. Nửa đời hương phấn không phải là ngoại lệ.
Ở những phân đoạn đối đáp, tác giả đều chọn những bài, câu vọng cổ thích hợp với tâm trạng của nhân vật. Cách gieo vần, ý tứ trong vở cải lương đều được thể hiện một cách tế nhị dù đề cập đến vấn đề xã hội nhức nhối.
Ở phân đoạn Hương bị Hai Cang dùng tiền uy hiếp, tác giả viết cho Hương câu vọng cổ:
“Người ta từ chối cho em làm dâu thảo vợ hiền. Em vừa mới ngoi khỏi vũng lầy tội lỗi, người ta đạp em xuống vũng bùn nhơ. Em muốn lau đi khuôn mặt nhuốc nhơ, người ta bưng thau nước ấy đổ đi. Em muốn bước ra ánh sáng trong lành, người ta lại xô em vào trong bóng tối”.
Hương trả lời Cang, cảm thán cho số phận nghiệt ngã. Cách đối đáp ý nhị, đầy chất thơ, ẩn ý trong lòng câu vọng cổ khiến người nghe cảm nhận được nỗi đau của cô gái không còn đường để trở về.
Từng câu ca, tiếng hát của vở diễn đều thể hiện sự ý nhị, tinh tế. Ảnh: Gia Bảo Official. |
Hay như phân đoạn chị em Hương và Diệu cãi nhau, tác giả sử dụng bài đượm buồn:
“Chị thương em không hết, có lý nào chị cướp giật tình em
Nhưng vì hoàn cảnh của chị không thể nào nói hết ra đây
Đã từ lâu, chị xa cách gia đình
Cuộc đời lắm phong ba, gặp bao điều xót xa
Xưa nay trong chốn tình trường, có mấy ai thật lòng với ta?
Tuổi của em đương độ xuân thời, nên có lắm kẻ tới lui
Khi bướm hưởng được hoa rồi, hoa đâu còn ngày vui…”.
Phân đoạn kinh điển nhất của vở Nửa đời hương phấn là đoạn Hương - Tùng và Diệu gặp nhau. Là nghệ sĩ nói chung và người yêu cải lương nói riêng, ai cũng thuộc và biết đến lớp Phụng hoàng này.
Nghịch cảnh ở đây là Tùng và Hương nói chuyện tình cảm ngày xưa nhưng Diệu hoàn toàn không hiểu chuyện. Chỉ 12 câu hát, đoạn trích thể hiện bi kịch “tình chị duyên em”, mối tình ngang trái Hương - Tùng và cô em đáng thương là Diệu.
Đặc biệt, ở cuối trích đoạn, khi Tùng vừa thốt lên câu “Sự thật chị Hai đây là…”, Hương vội cướp lời “Chị đây là chị ruột của em”.
Đây được xem là trích đoạn kịch tính, đáng xem nhất của toàn bộ vở cải lương vì gói gọn những cảm xúc “hỉ, nộ, ái, ố” trong vỏn vẹn 12 câu hát. Ở các chương trình lớn, đoạn trích được sử dụng nhiều lần vì đây là trích đoạn “ai cũng thuộc, ai nghe cũng biết”.
"Nhắc đến Nửa đời hương phấn, thế hệ của Hữu Châu, khán giả không bao giờ quên được lớp Phụng hoàng hay và đầy kịch tính", NSƯT Hữu Châu nói trong chương trình Chuyện về những vở diễn một thời.
Tại tập 8 chương trình Ký ước vui vẻ mùa 3, bộ ba NSND - Tiến sĩ Bạch Tuyết, NSƯT Phượng Hằng và ca sĩ Thanh Duy đã ngẫu hứng hát lại trích đoạn trên sóng truyền hình. Trong chương trình Sau ánh hào quang, ba nghệ sĩ Thanh Hằng, Ngân Quỳnh và Trấn Thành cũng góp giọng trong trích đoạn kinh điển.
Hơn 70 năm vẫn đầy tính nhân văn
Thuở đầu, vở cải lương được đo ni đóng giày cho hai ngôi sao lừng danh thập niên 1960 là cố NSƯT Út Bạch Lan và nghệ sĩ Thành Được.
Đến thời kỳ băng đĩa thịnh hành, bộ ba vai diễn thuộc về NSƯT Thanh Nga, nghệ sĩ Thành Được và NSND - Tiến sĩ Bạch Tuyết. Đây là phiên bản phổ biến và được khán giả đón nhận nhiều nhất. Giọng ca quý, hiếm của nghệ sĩ Thanh Nga đã đặt nền móng, quy chuẩn cho hình tượng cô The bạc phận.
Đến những năm 1990, khi đoàn cải lương Trần Hữu Trang diễn lại kịch bản kinh điển, NSND - Tiến sĩ Bạch Tuyết đảm nhận vai Hương, NSND Minh Vương đóng vai Tùng và NSND Lệ Thủy đảm nhận vai Diệu.
Nếu ngày trước The là vai diễn trung tâm của toàn vở diễn, thì tại sân khấu Trần Hữu Trang, NSND Lệ Thủy lại gây ấn tượng với lớp hài ghen tỵ với chị hai, những câu vọng cổ duyên dáng như: “Mở miệng ra một má con The, hai má con The, không đời nào ba nhắc tới má con Diệu...”, câu thoại “Chị hai chỉ vẽ chân mày tổ bà chảng (ý nói to) không nói, con vẽ có chút chíu cũng nói”...
Tại mùa 3 chương trình Ký ức vui vẻ, nghệ sĩ Lệ Thủy dù đã bước sang tuổi 73 vẫn thể hiện tròn trịa câu vọng cổ với chất giọng không bị thời gian làm mai một.
Cố NSƯT Út Bạch Lan đóng nhiều vai trong vở Nửa đời hương phấn suốt chặng đường nghệ thuật. Ảnh: Gia Bảo Official. |
Tuồng cải lương Nửa đời hương phấn được nhà văn Mặc Tuyền chuyển thể thành tiểu thuyết, xuất bản năm 1989. Ở cuối trang, tác giả có dẫn lời của cố soạn giả Kiên Giang về hậu kỳ sản xuất vở cải lương. Ông tuy không chấp bút nhưng nằm trong nhóm soạn giả thường trực họp và đưa ý kiến cho tác phẩm.
Theo đó, tựa đề Nửa đời hương phấn được tác giả đặt theo gợi ý của một gái làng chơi tên Lý Lệ Hằng. Trước đó, vở cải lương có tựa đề khá thô, trực tiếp nhắc đến nghề nghiệp này. Sau khi đọc kịch bản, cô đã khóc vì cho rằng số phận cô Hương quá giống cuộc đời chính mình. “Tiếng khóc uất nghẹn và câu hỏi của Hằng làm cho tôi bối rối, xót xa", soạn giả Kiên Giang nói.
Vở cải lương không đơn thuần là kịch bản giải trí. Đây còn là lời khóc than của soạn giả thay cho những cô gái có số phận đáng thương, trót lầm đường lạc lối của xã hội cũ.
Nói về sự thành công của vở diễn và cải lương xưa nói chung, NSND - Tiến sĩ Bạch Tuyết khẳng định: "Ngày xưa nghệ sĩ tập tuồng rất nhiều, có khi một tháng. Nghệ sĩ như cá gặp nước. Đó là sự kết hợp giữa thi - ca - vũ - nhạc - kịch".