Bệnh ghẻ thuộc nhóm bệnh ngoài da do ký sinh trùng ghẻ có tên Sarcoptes scabiei hominis, lây từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp hoặc qua quần áo, chăn chiếu có ghẻ và trứng ghẻ.
ThS.BS Trần Thị Thùy Trang, khoa Da Liễu, Bệnh viện Nhi Trung ương (Hà Nội), cho biết bệnh chủ yếu do ghẻ cái gây ra. Ghẻ đực thường chết sau khi giao hợp. Ghẻ cái ký sinh ở lớp sừng của thượng bì, đào hang về ban đêm, đẻ trứng về ban ngày, trứng nở thành ấu trùng và lột xác trở thành ghẻ trưởng thành.
Ban đêm, ghẻ cái bò ra khỏi hang tìm ghẻ đực, đây là lúc bệnh nhân cảm thấy ngứa, dễ lây truyền, do ngứa gãi làm vương vãi cái ghẻ ra quần áo, giường chiếu…
Ghẻ cái sống 4-6 tuần, đẻ mỗi ngày một đến 5 quả trứng. Sau 3-7 ngày, trứng nở thành ấu trùng, sau đó, lột xác nhiều lần thành cái ghẻ trưởng thành. Ghẻ sinh sôi nảy nở nhanh. Trong điều kiện thuận lợi, một ghẻ cái có thể đẻ tới 150 triệu con sau 3 tháng.
Bệnh ghẻ có thời gian ủ bệnh 4-6 tuần. Ảnh: Freepik. |
Bệnh có thể xuất hiện ở bất kỳ đối tượng nào, ảnh hưởng đến mọi tầng lớp trong xã hội. Người thường xuyên tiếp xúc, sinh hoạt chung như ngủ chung, dùng chung màn, khăn, chiếu, gối với người bị ghẻ dễ mắc bệnh.
Thời gian ủ bệnh thường 4-6 tuần. Luống ghẻ là do cái ghẻ đào ở lớp sừng gờ cao hơn mặt da, màu trắng đục hay trắng xám ở đầu luống ghẻ có mụn nước, mụn nước sắp xếp rải rác, riêng biệt.
Bác sĩ Trang cho hay ghẻ thường sinh nở ở đầu, mặt, lòng bàn tay, bàn chân, kẽ ngón tay, cổ tay, nách, bụng, bộ phận sinh dục. Sẩn cục ghẻ có màu nâu, tập trung chủ yếu ở vùng sinh dục trẻ nam, có thể gặp ở nách, mông. Một số sẩn cục tồn tại dai dẳng dù ghẻ đã hết.
Trẻ ngứa, gãi thường gây nhiều tổn thương trên da như vết xước, sẩn, trợt, vảy tiết, mụn nước, mụn mủ, chốc hóa, sẹo thâm màu, bạc màu. Thương tổn dai dẳng gây biến chứng nhiễm khuẩn, chàm hóa.
Với người bệnh ghẻ, các bác sĩ chuyên khoa da liễu sẽ soi kính lúp nhận định tổn thương, các vị trí đặc trưng của bệnh, đặc thù cơn ngứa và dịch tễ trong gia đình có người bị bệnh tương tự cho phép chẩn đoán bệnh ghẻ mà không cần thiết phải xét nghiệm.
Thực tế, một số trường hợp không điển hình, phải thực hiện các xét nghiệm như soi tìm cái ghẻ, chất cặn thải của cái ghẻ dưới kính hiển vi, hoặc bằng máy dermoscopy. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng tìm thấy cái ghẻ.
Để điều trị hiệu quả, phụ huynh cần lưu ý bôi thuốc trị ghẻ đúng cách vào buổi tối, chú ý bôi kỹ những vùng nếp gấp, sinh dục, quanh móng, sau tai. Trẻ em có thể bôi cả vùng mặt và đầu nếu có thương tổn và theo chỉ định của bác sĩ, cách ly người bệnh, vệ sinh chăn chiếu, đồ dùng…
Phụ thuộc vào tình trạng bệnh nhân bị ghẻ như ghẻ chàm hóa, ghẻ bội nhiễm, hay ghẻ sẩn cục, bác sĩ sẽ có kế hoạch điều trị cụ thể cho từng bệnh nhân bằng thuốc bôi tại chỗ như kem permethrin 5%, dung dịch DEP (diethyl-phtalat), benzyl benzoat 10-25%, ivermectin 1%, sulfur 6-33%, malathion 0,5%, kem crotamiton.
Bệnh nhân có thể dùng thuốc giảm ngứa, kháng sinh, chống viêm nếu trẻ bị ghẻ bội nhiễm, chàm hóa bác sĩ chuyên khoa cân nhắc việc sử dụng thêm. Trường hợp tổn thương da nặng, lan tỏa, ghẻ đáp ứng kém với điều trị thuốc bôi có thể chỉ định thêm thuốc uống Ivermectin, dùng cho trẻ lớn hơn 15 kg.
Cách tốt nhất để phòng tránh bệnh ghẻ là tránh tiếp xúc trực tiếp với da của người bị bệnh ghẻ. Vì thế, người dân không nên sử dụng quần áo hoặc khăn trải giường chung với người bị nhiễm ghẻ.
Gia đình cần vệ sinh, thay đồ dùng cá nhân như quần áo, khăn tắm, chiếu, khăn trải giường hàng ngày (giặt ở nhiệt độ từ 50 độ C trở lên trong ít nhất 10 phút) cho trẻ, sau đó phơi, sấy khô, là ủi hai mặt nếu có thể rồi bịt kín trong túi, sử dụng lại sau khoảng 5 ngày.