22h đêm 6/9, theo kế hoạch, là suất chiếu cuối cùng của Song Lang tại Hà Nội sau chiến dịch "Cho Song Lang thêm tuần nữa", được khởi xướng bởi đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp. Trong phòng chiếu, khán giả yêu bộ phim đến không còn một ghế trống, trong đó có nhiều người xem lần 2, lần 3.
Vì hết vé, và không còn đủ chỗ ngồi, những khán giả đến sau được cho phép ngồi trên nệm babykid dọc hai lối đi. Một cảnh tượng hiếm hoi. Càng bất ngờ hơn, khi trước giờ chiếu, Hoàng, một nhân viên trẻ của rạp chiếu cầm trên tay chiếc loa kiểu "loa phường", và tuyên bố: Song Lang lại được yêu thêm một tuần nữa.
Với Song Lang, Isaac thuyết phục hơn trong diễn xuất. |
Câu hỏi không lời giải: Họ có yêu nhau?
Nói "yêu" với Song Lang không khó. Trên mạng xã hội, bao mỹ từ đã dành cho bộ phim của đạo diễn Leon Lê, có nghệ sĩ, có người làm nghề, có giới phê bình, và có cả khán giả. Ở môi trường mà đâu đâu cũng thấy anh hùng bàn phím, cũng thấy ném đá, thì những lời hay ý đẹp dành cho một tác phẩm điện ảnh Việt, thật đáng quý, đáng để một ê-kíp tự hào.
Nhưng có một câu hỏi bao người thắc mắc, rằng "Dũng Thiên Lôi (Liên Bỉnh Phát) và Linh Phụng (Isaac) có yêu nhau không?". Mối quan hệ ấy liệu có phải là tình yêu hay chỉ là sự đồng điệu, gắn kết, thương cảm của hai tâm hồn cô đơn đến cùng cực, may thay được cứu rỗi bởi những câu vọng cổ.
Phải chăng thứ tình ấy giống như hai nhân vật chính trong The King And The Clown (Nhà vua và chàng hề)? Một thứ tình huynh đệ keo sơn, đồng điệu, chẳng thể gọi tên. Hình như, họ cùng ở bên nhau, cùng rong ruổi, thậm chí cùng "ghen" chỉ vì hai người cùng yêu ca hát.
Ánh mắt và ngoại hình của Isaac trong vai Linh Phụng có nét giống ánh mắt Lee Jun Ki trong vai Lee Gong Gil, một vẻ sắc rất nữ tính. Trong khi Liên Biểu Phát với Dũng Thiên Lôi như Kam Woo-sung với vai Jang-saeng, cũng bụi phủi, bất cần.
"Mối quan hệ không tên của Dũng và Linh Phụng chưa tới mức tri kỉ, cũng không hẳn là tình yêu, thậm chí còn chưa thể coi là tình bạn hữu. Đó đơn thuần là sự đồng điệu về tâm hồn của hai con người xa lạ trong thoáng chốc", một nhà báo viết.
Nhận định ấy có phần tàn nhẫn với khán giả nhưng là suy luận có lý trí.
Trong một tác phẩm hay, chi tiết không bao giờ là vô nghĩa. Cảnh làm tình của Dũng và bạn gái không lộ một chút da thịt nam nữ, lại nằm trong một bộ phim bị gắn mác "tình trai", hẳn đạo diễn phải có dụng ý. Có nhiều tình tiết để chứng tỏ Dũng và cô bạn gái không chỉ là mối quan hệ qua đường, nhưng Dũng thực lòng yêu ai thì không ai có thể có câu trả lời.
Liên Bửu Phát là một phát hiện thú vị của đạo diễn, cách thoại của nam diễn viên tương đối ấn tượng và phù hợp với nhân vật. |
Với Leon Lê - cha đẻ của tác phẩm, anh gọi mối quan hệ của Dũng và Linh Phụng là tình yêu, dù không hôn, không làm tình, không va chạm. Một thứ tình yêu chớm nở, thánh thiện, không toan tính, không dục vọng. Một thứ tình yêu không thể coi là không đẹp.
Thật, Linh Phụng đã yêu Dũng, yêu đến từng ánh mặt, cử chỉ, nụ cười. Có yêu mới muốn người ta thay đổi, mới nâng niu hộp quà, mới chờ đợi sốt ruột, và mới diễn được như không trên sân khấu trong cảnh mất mát, chia ly.
Dũng, dù gồ ghề, nhưng cũng có những khoảnh khắc bộc lộ tình yêu như vậy. Nếu không yêu Linh Phụng, liệu Dũng có thể nhìn say đắm khi đối phương đang ngủ. Và không yêu, liệu có vì hai ba câu nói mà thay đổi, từ bỏ công việc đòi nợ, "đâm thuê chém mướn" để thành một nhạc công dù biết đó là nghề bạc bẽo.
Nhưng một giả thuyết khác, Dũng cũng có thể là một nhân vật Song tính luyến ái, yêu cả nam lẫn nữ như Hong Lim (Jo In Sung) trong Sương Hoa Điếm (Hàn Quốc).
Và cũng không loại trừ trường hợp tình yêu Linh Phụng chỉ là bi kịch tình đơn phương như Trình Điệp Y (Trương Quốc Vinh) trong Bá Vương Biệt Cơ.
Vì thế, câu hỏi "Dũng và Linh Phụng có yêu nhau không?", gần như đã không có đủ tình tiết để giải đáp. Câu hỏi rơi vào hư không, tạo nên những thắc mắc đầy ẩn ức, khiến Song Lang, dù quá đỗi đượm tình nhưng không hẳn là bộ phim về tình yêu giới tính.
Một trong những cảnh quay cho thấy sự hòa hợp của hai nhân vật nam chính, người đàn kẻ hát. |
"Song Lang", hay thì hay thật, nhưng vẫn thiếu?
Song Lang là tác phẩm có nhiều tình tự đẹp. Song Lang mang đến những nét văn hóa "hiếm có, khó tìm" trên màn ảnh. Cải lương hiện lên chân phương mà lộng lẫy.
Thật khó để phục dựng Sài Gòn những năm 1980, thật khó để phục dựng thời hoàng kim của cải lương, càng khó để tạo nên không khí nghệ thuật cải lương đong đầy, đúng nghĩa và chính xác nhất.
Nhưng Leno Lê và ê-kíp của mình làm được điều đó. Dù tất nhiên, có chỗ chưa thật chính xác với lịch sử cải lương. Nhưng những tình tự đẹp mà phim mang lại xóa nhòa đi tất cả.
Song Lang là bộ phim đẹp đến từng cảnh quay, là những thước phim điện ảnh nhất, và cũng Việt nhất có thể. Từ giọt nước rơi xuống vũng máu, từ trang sách cũ, từ ánh nhìn của nhân vật hay những góc quay trung, cận cảnh đều cho thấy sự chỉn chu, kỹ lưỡng đến mức hoàn hảo, khó có thể chê trách.
Nhưng tại sao Song Lang đã không thể "hot" hơn dù có nhiều yếu tố được cho là khả quan về hiệu ứng như diễn viên đẹp, tình yêu đồng giới trong một tác phẩm có cao trào, kịch tính, lại có yếu tố văn hóa cải lương vốn quá ư quen thuộc.
Song Lang, đáng ra không cần phải có những chiến dịch "cho thêm một tuần nữa", nghe có phần đáng thương. Đúng ra, Song Lang có thể không gây bão, nhưng phải được yêu thích và lan tỏa hơn, như những gì phim xứng đáng được nhận.
Có rất nhiều biện giải, trong đó có ý kiến cho rằng Song Lang là một phim dòng nghệ thuật, lại là nghệ thuật lồng ghép yếu tố văn hóa truyền thống, hẳn nhiên sẽ kén khán giả.
Nhưng ngoài những yếu tố ngoại cảnh, tự thân Song Lang cũng có những nuối tiếc điện ảnh. Về câu chuyện, Song Lang thiếu một chút tàn nhẫn trong việc xây dựng nhân vật Dũng ở phần đầu, thiếu một chút trong khắc họa sự tài hoa, cô đơn và nổi tiếng của Linh Phụng.
Về âm nhạc, cải lương trong Song Lang thiếu một chút thuyết phục trong giọng hát Isaac, và của các nhân vật khác.
Về mối quan hệ giữa Dũng và Linh Phụng, đạo diễn chủ ý tạo nên sự dở dang, nuối tiếc nhưng vô tình cũng khiến cảm xúc người xem hụt hẫng, bẽ bàng. Kết thúc ấy là một nỗi buồn, một sự bất ngờ bi ai, nhưng nếu xem lại lần 2, lần 3, khi sự bất ngờ không còn nữa, cảm xúc gì sẽ ở lại nơi người xem?
Không ít khán giả "chùng" xuống, cảm giác như không muốn đứng dậy sau cảnh cuối vì mối tình dang dở của Dũng Thiên Lôi và Linh Phụng, lại là dang dở theo kiểu "drama" nhất. Nhiều chữ "giá như" được hiện lên, dù ai cũng biết, số phận nhân vật là quyền năng của biên kịch và đạo diễn.
Có rất nhiều cách để tạo nên sự dở dang, và dở dang mà vẫn đẹp bao giờ cũng dễ được đón nhận hơn. Call me by your name kết thúc trong 3 phút nước mắt của nhân vật Elio, cũng là kết thúc một mối tình đẹp nơi mùa hè nước Ý. Nhưng sự dở dang ấy có phần bớt "sát thương" hơn nhiều Song Lang.
Tình dang dở không phải là kết thúc mới mẻ trong những bộ phim có yếu tố đồng tính. |
Huống hồ, "sát thương" ở cảnh cuối, nhưng mạch phim trước đó lại có phần thiếu cao trào, "gieo" tình tiết chưa xuất sắc khiến phim trôi qua nhanh trong 90 phút, và ít nút thắt.
Khi Song Lang chưa công chiếu, trailer và poster phim khiến nhiều người liên tưởng đến phim Bá Vương Biệt Cơ, một bộ phim cũng tuồng tích và đau đớn.
Mọi so sánh đều là khập khiễng, nhưng rõ ràng, trong Bá Vương Biệt Cơ, cách xây dựng cả về nghệ thuật truyền thống là kinh kịch đặt trong bối cảnh lịch sử, đến mối quan hệ đầy đau khổ, khó xử của các nhân vật đều được đẩy đến tận đỉnh, khiến phim cao trào và có nhiều nút thắt hơn Song Lang.
Tất nhiên, Song Lang là một bộ phim riêng biệt và rất Việt. Tuy cũng có những tình tự vô tình tương đồng với một số bộ phim chung hướng đề tài trên thế giới, nhưng Leon Lê đã có những kiến tạo tài hoa rất cá nhân. Leno cho thấy bản thân là một người có thể làm nên chuyện với điện ảnh nước nhà, trong bối cảnh phim Việt vẫn đầy "remake" và hài nhảm.