Các bác sĩ khoa Hồi sức Tim mạch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, cho biết gần đây liên tục tiếp nhận những trường hợp thuyên tắc động mạch phổi cấp với nhiều tình trạng khác nhau.
TS Đặng Việt Đức, khoa Hồi sức Tim mạch, cho hay: "Thuyên tắc động mạch phổi cấp là bệnh khá thường gặp. Đây nguyên nhân đứng thứ 2 gây đột tử do tim. 80% bệnh nhân tử vong trong bệnh viện không xác định được nguyên nhân khi giải phẫu thi thể được xác định do thuyên tắc động mạch phổi.
Trong đại dịch Covid-19, dường như chúng ta bắt gặp nhiều trường hợp thuyên tắc động mạch phổi hơn trước đây, liên quan đến tình trạng tăng đông máu hậu Covid-19. Tuy nhiên, khả năng chẩn đoán và điều trị phụ thuộc vào trang bị, kinh nghiệm của từng cơ sở y tế".
Bệnh nhân sốc tim do thuyên tắc động mạch phổi cấp hai bên (mũi tên chỉ vị trí cục máu đông). Ảnh: BVCC. |
Theo PGS.TS Nguyễn Đình Tiến, Chủ nhiệm bộ môn Nội Hô hấp, bệnh nhân có thể bị tổn thương mạch máu nhỏ ở phổi, mắc huyết khối lớn và nhỏ đã xảy ra ở giai đoạn sớm của Covid-19. Hiện tượng này xảy ra ở Covid-19 nhiều hơn các bệnh virus khác. Mặt khác, tình trạng tăng đông có thể kéo dài qua thời kỳ hậu Covid-19.
Cơ chế thuyên tắc động mạch phổi là do máu ứ trệ, tổn thương nội mạc mạch máu và tăng đông. Đo thrombomodulin có thể theo dõi tình trạng tổn thương nội mạc còn tiếp tục hay không. Tình trạng tăng đông còn có thể do viêm kéo dài biểu hiện bằng xét nghiệm IL-6 và lipocalin-2 vẫn còn cao và có kháng thể Antiphospholipid.
Khi bệnh nhân có các biểu hiện như khó thở, đau tức ngực, ho và có thể ho ra máu, cần xét nghiệm D-dimer và kiểm tra X-quang phổi, điện tim, siêu âm tim. Nếu nghi ngờ thuyên tắc động mạch phổi, người bệnh cần chụp CT-Scan ngực có thuốc cản quang để chẩn đoán xác định huyết khối động mạch phổi.
"Khi thuyên tắc động mạch phổi cấp mức độ nặng, nguy cơ tử vong có thể lên tới 60% với diễn biến thường rất nhanh trong 1-2 giờ đầu. Do vậy, bác sĩ phải luôn nghĩ tới bệnh lý này mới kịp đưa ra chiến lược chẩn đoán và điều trị cho người bệnh", TS Đặng Việt Đức cho hay.
Ông nhận định căn bệnh này không hiếm gặp nhưng lại ít người biết đến. Không chỉ người già yếu nằm lâu bất động hay các bệnh nhân đột quỵ não, bệnh nhân phẫu thuật mà người trẻ cũng có nguy cơ mắc bệnh. Đặc biệt là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có thể liên quan vấn đề thai nghén hoặc các bệnh nhân có sẵn bệnh lý huyết khối tĩnh mạch chi dưới.
Bệnh có nhiều biểu hiện mức độ khác nhau. Với mức độ nặng có thể gây sốc, tụt huyết áp, suy hô hấp. Biểu hiện nhẹ xuất hiện khó thở mức độ vừa, không gây hiện tượng sốc. Thậm chí, một số bệnh nhân âm thầm không có biểu hiện, mạn tính lâu ngày không phát hiện ra. Vì vậy, để phòng tránh bệnh, người dân nên thường xuyên đi kiểm tra sức khỏe để tránh hậu quả khó lường.