Theo thông tin tại hội nghị “Diễn đàn đối thoại chính sách và hội thảo chuyên gia về HPV và ung thư cổ tử cung”, do Viện Ung thư Quốc gia Mỹ phối hợp cùng Viện Ung thư Quốc gia, Bệnh viện K tổ chức, ung thư cổ tử cung là bệnh lý ác tính của biểu mô lát (biểu mô vảy) hoặc biểu mô tuyến cổ tử cung, thường gặp từ độ tuổi 30 trở đi, đứng thứ hai trong các ung thư sinh dục ở nữ giới về tỷ lệ mắc cũng như tỷ lệ tử vong.
Từ 1990 đến 2015, số phụ nữ tử vong do ung thư cổ tử cung đã gia tăng 39%, từ 192.000 trường hợp lên 366.000 trường hợp/năm.
GS Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu tại hội thảo. Ảnh: HQ. |
Năm 2010, Việt Nam có 5.644 phụ nữ mắc ung thư cổ tử cung, tỷ lệ mới mắc chuẩn hóa theo tuổi là 13,6/100.000 phụ nữ. Tỷ lệ này thấp hơn so với khu vực Đông Nam Á (15,8/100.000), nhưng đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt tại một số tỉnh như Cần Thơ.
Một trong những lý do dẫn đến tình trạng này là phụ nữ chưa được sàng lọc định kỳ và có hệ thống để phát hiện sớm ung thư qua các xét nghiệm thích hợp, dễ tiếp cận; khi phát hiện tổn thương tiền ung thư cũng chưa được điều trị kịp thời và hiệu quả.
Nhiễm một hoặc nhiều type Human Papillomavirus (HPV) nguy cơ cao đã được khẳng định là nguyên nhân tiên phát của ung thư cổ tử cung. HPV là tác nhân truyền qua đường tình dục. Nguy cơ nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời của người phụ nữ là khoảng 80%, với tỷ lệ nhiễm cao nhất xảy ra trong độ tuổi 20-30, có thể lên đến 20-25% trong quần thể. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư cổ tử cung ở Việt Nam liên quan chặt chẽ với tỷ lệ nhiễm HPV.
Các yếu tố nguy cơ của ung thư cổ tử cung bao gồm quan hệ tình dục sớm hoặc với nhiều người, sinh nhiều con, vệ sinh vùng kín không đúng cách, viêm cổ tử cung mạn tính, nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, điều kiện dinh dưỡng, kinh tế xã hội thấp; hút thuốc lá, đái tháo đường, sử dụng thuốc tránh thai đường uống loại phối hợp kéo dài (trên 10 năm), nhiễm HIV, HSV-2.
Ung thư cổ tử cung tạo ra các gánh nặng bệnh tật lớn cho người bệnh, gia đình, hệ thống y tế và toàn xã hội. Năm 2012, tổng gánh nặng trực tiếp của ung thư cổ tử cung khoảng 1.755 tỷ đồng, xếp thứ 4 và chiếm khoảng 0,015% GDP; gánh nặng gián tiếp khoảng 418 tỷ đồng, xếp thứ 5 trong số 6 loại bệnh ung thư thường gặp nhất.
Đây là bệnh nguy hiểm nhưng có thể làm giảm tỷ lệ tử vong và gánh nặng cho gia đình, xã hội nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Đó là do khoảng thời gian hình thành và tồn tại tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung tương đối dài, yếu tố nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đã được xác định.
Mặt khác, cổ tử cung là bộ phận có thể tiếp cận trực tiếp để quan sát, thăm khám, lấy bệnh phẩm và thực hiện các can thiệp điều trị. Vì vậy, đa số trường hợp ung thư cổ tử cung có thể được phòng ngừa bằng cách sàng lọc, phát hiện sớm và điều trị các thương tổn tiền ung thư.