
Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, khi cả nước cùng nhìn lại chặng đường dựng xây và phát triển, giới y khoa có quyền tự hào về những bước tiến vượt bậc.
Ngày đất nước độc lập, y tế Việt Nam còn vô vàn thiếu thốn. Sau 80 năm, y tế Việt Nam đã thật sự vươn mình trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, không thể không kể đến lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Giờ đây, người Việt đã làm chủ công nghệ, công bố nghiên cứu trên những tạp chí y khoa hàng đầu thế giới, sánh vai cùng những trung tâm lớn ở châu Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Tri Thức - Znews trân trọng giới thiệu bài viết về những nỗ lực không ngừng của y học hỗ trợ sinh sản Việt Nam trong những năm qua. Lĩnh vực này là minh chứng rõ rệt cho tinh thần hội nhập, sáng tạo và khát vọng không ngừng vươn lên của ngành y tế nước nhà.
Chậm, mà chắc
“Xét về mặt lịch sử, Việt Nam khởi đầu muộn hơn thế giới”.
Trong cuộc trò chuyện đầy hoài niệm với Tri Thức - Znews về chặng đường đã qua của lĩnh vực hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam, bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Tổng thư ký Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP.HCM, đã bắt đầu như thế.
Đó là một sự so sánh thẳng thắn, nhưng lại ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc.
Ca thụ tinh ống nghiệm (IVF) thành công đầu tiên trên thế giới là vào năm 1978, còn Việt Nam đến năm 1998 mới có, tức là chậm hơn 20 năm. So với các nước trong khu vực, chúng ta cũng đi sau khoảng 10 năm. Singapore đã thành công từ năm 1983-1984, sau đó nhiều nước khác như Thái Lan, Malaysia… cũng có kết quả từ những năm 1985-1987. Việt Nam chỉ nhanh hơn Campuchia.
Thế nhưng, chính sự khởi đầu chậm ấy lại trở thành một lợi thế. Khi IVF bắt đầu triển khai ở Việt Nam, cũng là lúc công cuộc đổi mới bung nở, đưa kinh tế - xã hội phát triển nhanh chóng, tạo nền tảng vững chắc để y tế bắt nhịp với công nghệ hiện đại.
![]() |
Bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Tổng thư ký Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP.HCM, chuyên gia đầu ngành lĩnh vực hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam. Ảnh: BVCC. |
Một điểm khác biệt lớn là nhóm bác sĩ tiên phong tiếp cận IVF đã được đào tạo bài bản, chính quy và dài hạn ở nước ngoài, khác hẳn với nhiều kỹ thuật y khoa chỉ học “ngắn hạn” rồi mang về áp dụng.
"Vì thế, khi IVF triển khai tại Việt Nam, chúng ta đã có nền tảng khoa học và kiến thức tốt hơn", bác sĩ Tường nhấn mạnh.
Một dòng chảy khác cũng góp phần tạo nên kỳ tích là nhu cầu điều trị vô sinh, hiếm muộn lớn trong xã hội Á Đông. Khi đời sống kinh tế được cải thiện, các trung tâm IVF trong nước nhanh chóng mở rộng, đón số lượng bệnh nhân đông hơn hẳn các quốc gia trong khu vực.
Chính điều này đã tạo ra một môi trường, giúp các bác sĩ và kỹ thuật viên tích lũy kinh nghiệm dày dạn, phát triển chuyên môn vượt bậc.
"Ngoài ra, sự kết nối, chia sẻ chuyên môn giữa các cơ sở y tế IVF ở Việt Nam cũng khá tốt, tạo thành động lực phát triển chung”, bác sĩ Tường nhận xét.
Một điểm thuận lợi nữa là khi Việt Nam bắt đầu, công nghệ thế giới đã có những bước tiến vượt bậc. Chúng ta không bị mắc kẹt với thiết bị cũ mà đầu tư thẳng vào công nghệ hiện đại nhất.
Chặng đường thần tốc
Việt Nam đã có khoảng 200.000 trẻ chào đời trong 26 năm qua nhờ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, gồm cả kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Cùng với đó, số lượng bệnh viện tham gia điều trị hiếm muộn không ngừng tăng, kéo theo tỷ lệ thành công ngày càng cao.
Tiếp nối câu chuyện về những bước tiến của IVF Việt Nam, bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Thị Nhã, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu điện, khẳng định những kỹ thuật tiên tiến trong IVF có trên thế giới thì tại Việt Nam đã triển khai thành công. Về tỷ lệ thành công cũng như trình độ kỹ thuật, Việt Nam gần như ngang bằng với các nước phát triển.
“Dù không trực tiếp nghiên cứu ra các phương pháp này, nhưng nhờ hội nhập quốc tế, các bác sĩ đã nhanh chóng học tập, tiếp nhận chuyển giao và làm chủ công nghệ”, bác sĩ Nhã nhấn mạnh.
![]() |
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã tư vấn cho nữ bệnh nhân có nhu cầu làm IVF. Ảnh: Đinh Hà. |
Bác sĩ Nhã cho biết với những kỹ thuật tiên tiến như IVF-ICSI, Micro-TESE hay ROSI, nhiều ca vô sinh phức tạp, đặc biệt là ở nam giới, giờ đây đã tìm thấy hy vọng. Thậm chí, những cặp vợ chồng mang gen bệnh lý cũng có thể sinh con khỏe mạnh nhờ kết hợp IVF với sàng lọc phôi.
Đưa Việt Nam lên bản đồ IVF thế giới
Theo bác sĩ Tường, nếu trước kia y tế Việt Nam chỉ quen với việc “đọc sách quốc tế để làm theo”, thì nay, chính các bác sĩ Việt lại góp phần viết nên những trang sách mới cho thế giới.
Năm 2018, một nhóm nghiên cứu tại Bệnh viện Mỹ Đức đã tạo nên tiếng vang lớn khi công bố trên New England Journal of Medicine với một nghiên cứu đột phá. Công trình này so sánh giữa chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa, và kết quả đã làm thay đổi thực hành lâm sàng toàn cầu.
Tiếp đó, nhóm cũng thực hiện những nghiên cứu lớn về phác đồ chuyển phôi đông lạnh, được đăng tải trên The Lancet, trở thành tài liệu tham khảo quan trọng cho giới IVF quốc tế.
"Điều này đặc biệt ý nghĩa. Bởi trước đây, y tế Việt Nam thường chỉ 'theo sau' sách vở quốc tế. Nhưng giờ, Việt Nam lại có số liệu, bằng chứng và được cả thế giới áp dụng”, bác sĩ Tường nói.
![]() |
Ê-kíp hỗ trợ sinh sản của Bệnh viện Mỹ Đức đang hướng dẫn cho các bác sĩ Trung Quốc. Ảnh: BVCC. |
Với những đóng góp này, IVF Việt Nam đã có một vị thế khác. Tỷ lệ thành công của nhiều trung tâm đạt chuẩn quốc tế, kết quả tương đồng với các cơ sở hàng đầu ở châu Âu, Mỹ.
Dữ liệu từ Việt Nam cũng được đánh giá cao hơn nhiều nước lớn vì tính minh bạch và đáng tin cậy. Chính nhờ điều này, Việt Nam hiện nay đã nằm trong nhóm 5 quốc gia hàng đầu châu Á về IVF, cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc.
"Giờ đây, trong khu vực, hội nghị, hội thảo quốc tế về hỗ trợ sinh sản đều bắt buộc phải có Việt Nam. Họ theo sát các số liệu, phác đồ của chúng ta”, bác sĩ Tường cho biết.
Dù vậy, ngành hỗ trợ sinh sản của Việt Nam trong 5-10 năm tới sẽ gặp thách thức lớn, bởi phía trước là các “ông lớn” như Nhật, Hàn, Mỹ, châu Âu.
Bác sĩ Tường cho rằng Việt Nam cần đầu tư vào các mũi nhọn IVF ở những nơi làm tốt, bao gồm cả bệnh viện công lẫn tư nhân. Đây là yếu tố then chốt để ngành hỗ trợ sinh sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam chủ động "xuất khẩu" công nghệ y tế
Ở một lát cắt khác của hành trình vươn lên, TS.BS Hồ Ngọc Anh Vũ, Trưởng Đơn vị Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Mỹ Đức chia sẻ về kỹ thuật trưởng thành trứng non - IVM (In Vitro Maturation) - một kỹ thuật đầy tiềm năng, mang tính nhân văn.
Bác sĩ Vũ giải thích khác với IVF phải kích thích buồng trứng để lấy trứng trưởng thành, IVM lấy trứng non ra ngoài, nuôi trưởng thành trong labo rồi thụ tinh. Nhờ vậy, bệnh nhân không cần tiêm nhiều thuốc, tránh nguy cơ quá kích buồng trứng, giảm đau đớn, rối loạn nội tiết và chi phí thân thiện hơn.
"Chi phí IVM chỉ bằng khoảng 1/3 IVF, một yếu tố quan trọng giúp tăng khả năng tiếp cận điều trị cho nhiều gia đình Việt Nam có thu nhập thấp”, bác sĩ Vũ nói.
![]() ![]() |
Bác sĩ Vũ chuyển giao kỹ thuật IVM tại Trung Quốc. Ảnh: BVCC. |
Đơn vị hỗ trợ sinh sản - IVFMD (Bệnh viện Mỹ Đức) hiện là nơi thực hiện nhiều ca IVM nhất thế giới, sở hữu nguồn dữ liệu khoa học đủ lớn với hàm lượng khoa học cao, được công bố trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế và tự tin chuyển giao công nghệ cho nhiều quốc gia.
Gần đây nhất, một bước ngoặt lịch sử đã diễn ra, khi các chuyên gia Việt Nam trực tiếp bay sang Trung Quốc để chuyển giao công nghệ này. Trong chuyến đi đó, bác sĩ Vũ và đồng nghiệp đã trực tiếp hướng dẫn toàn bộ quy trình cho các bác sĩ Trung Quốc, từ việc chọn bệnh nhân, chọc hút những nang trứng non đến việc nuôi trưởng thành noãn, nuôi cấy phôi trong labo.
"Một kỹ thuật chỉ coi là ổn định khi em bé ra đời khỏe mạnh, được theo dõi lâu dài, chứ không chỉ dừng ở việc tạo phôi hay có thai. Và chúng tôi đã chứng minh điều đó”, bác sĩ Vũ khẳng định, với niềm tự hào của một người Việt đã mang tri thức nước nhà ra thế giới.
Đặc biệt hơn, IVFMD đã làm chủ một công nghệ tiên tiến trong IVM, được gọi là CAPA IVM. Đây là một hệ thống nuôi trứng non trưởng thành hai pha, được phát triển từ Bỉ, Australia và IVFMD.
Ưu điểm nổi bật của CAPA IVM là khả năng nuôi cấy trứng trưởng thành một cách toàn diện, đảm bảo sự trưởng thành đồng bộ giữa nhân và tế bào chất, yếu tố quyết định chất lượng của trứng. Các nghiên cứu tại IVFMD đã chứng minh CAPA IVM tối ưu, an toàn cho cả mẹ và thai nhi, và những kết quả này đã được công bố rộng rãi trên các tạp chí lớn trong ngành hỗ trợ sinh sản.
Trong bối cảnh y học hỗ trợ sinh sản Việt Nam vươn mình ra thế giới, kỹ thuật này không chỉ là một bước tiến vượt bậc mà còn là minh chứng cho vị thế mới của ngành y tế nước nhà. Giờ đây, Việt Nam không chỉ tiếp nhận mà đã có thể tự tin chuyển giao công nghệ tiên tiến, khẳng định vai trò là một đối tác đáng tin cậy trên bản đồ y học toàn cầu.