Gia tăng bệnh trầm cảm
Theo Tiến sĩ Nguyễn Doãn Phương - Viện trưởng Viện sức khỏe Tâm thần quốc gia - trầm cảm là một rối loạn phổ biến trên thế giới.
Theo một nghiên cứu của WHO, xấp xỉ 298 triệu người mắc trầm cảm trong năm 2010 (chiếm 4,3% dân số toàn cầu). Tỷ lệ mắc trầm cảm giữa các nước, các khu vực trên thế giới có sự khác nhau, từ 3% ở Nhật Bản cho đến 17% ở Mỹ.
Bệnh nhân bị trầm cảm nằm điều trị tại Viện Sức khoẻ tâm thần quốc gia. |
Viện sức khoẻ Tâm thần đang điều trị cho bệnh nhân nữ 21 tuổi, sinh viên năm cuối của một trường đại học. Bệnh nhân có tiền sử khỏe mạnh, tính cách sống vui vẻ hòa đồng. Bệnh diễn biến 6 tuần nay, khởi đầu sau khi cô chia tay người yêu cùng áp lực ở trường học. Từ đó bệnh nhân không thể ngủ hơn 3-4 tiếng một tối, chán ăn, và gầy sút 4 kg trong 6 tuần.
Bệnh nhân thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, không muốn đi học và cũng không muốn làm việc gì, hay ngồi khóc, và cảm giác cuộc sống không còn có ý nghĩa.
Bệnh nhân hay bị cáu gắt và giận dữ, nhiều lần nói với mẹ là không muốn sống nữa, muốn chết để không phải đau khổ như hiện tại.
Trầm cảm có thể xảy ra ở nhiều lứa tuổi nhưng phổ biến nhất là 18-45 tuổi, phụ nữ nhiều hơn nam giới. Hội chứng này gặp tỷ lệ cao ở những người ly thân, ly dị, thất nghiệp. Nguy cơ mắc trầm cảm cũng tăng với các bệnh lý thần kinh, tim mạch kèm theo như đột quỵ, Parkinson.
Theo một nghiên cứu khác ở Mỹ năm 2014, có khoảng 17.600 người bị trầm cảm mỗi năm, nhưng có tới hơn 2/3 người bị trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị. Chỉ có khoảng 20% những bệnh nhân này được điều trị đúng chuyên khoa và đúng phác đồ.
Điều đáng báo động là có tới 48% những người trầm cảm có ý tưởng tự sát, và 24% những người toan tự sát được báo cáo là không nhận được sự hỗ trợ điều trị trước đó.
Tại Việt Nam, hiện có khoảng 30% dân số có rối loạn tâm thần, trong đó tỷ lệ trầm cảm chiếm 25%. Trong năm 2016, Viện Sức khoẻ Tâm thần khám và điều trị ngoại trú 18.402 lượt bệnh nhân trầm cảm (chiếm 30%), điều trị nội trú 446 lượt bệnh nhân (chiếm 13,0%).
Trung bình mỗi ngày có 50 bệnh nhân đến khám và điều trị về trầm cảm. Mỗi năm, số người tự sát do trầm cảm ở nước ta từ 36.000-40.000 người.
Nghiên cứu mới nhất tại Viện Sức khoẻ Tâm thần năm 2016, ở những bệnh nhân từ 45 tuổi bị trầm cảm, có 36,5% bệnh nhân có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.
Đa số tự sát do bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, không xứng đáng sống. Phần lớn các trường hợp trầm cảm có khuynh hướng trở thành mạn tính và tái diễn cũng như phục hồi không hoàn toàn giữa các giai đoạn.
Bệnh của xã hội phát triển
Tiến sĩ Phương cho biết nguyên nhân của bệnh lý trên là do xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của người dân về sức khỏe tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng ngày càng được nâng cao. Người dân đã tìm hiểu và đến khám, điều trị ngày càng nhiều.
Dấu hiệu nhận biết của bệnh trầm cảm là người bệnh có cảm giác buồn chán, trống rỗng, khó tập trung suy nghĩ, hay quên, luôn cảm giác mệt mỏi, không muốn làm việc gì, cảm giác mình có tội lỗi, vô dụng, không xứng đáng, mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều, hay cáu gắt, giận dữ, giảm thích thú trong các hoạt động hoặc sở thích hàng ngày, giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều, nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.
Ngoài ra, nhiều bệnh nhân trầm cảm còn được biểu hiện bằng các triệu chứng như đau đầu, đau tức ngực, các rối loạn tiêu hóa…
Bác sĩ Phương cho biết bệnh nhân bị trầm cảm thường do các nguyên nhân như li dị, sống độc thân, thiếu sự hỗ trợ chăm sóc từ xã hội, cộng đồng, tiền sử gia đình có người bị trầm cảm, lạm dụng rượu và các chất ma túy, thay đổi môi trường sống, thay đổi công việc, thất nghiệp, hoặc có các bệnh cơ thể mạn tính, bị lạm dụng thể chất, lạm dụng tình dục, xung đột cá nhân trong các mối quan hệ...
Đặc biệt, phụ nữ có nguy cơ mắc trầm cảm nhiều hơn nam giới 2 lần. Ở phụ nữ, sự thay đổi hormone ở lứa tuổi dậy thì, trong chu kỳ kinh nguyệt, giai đoạn mang thai, bị sảy thai, giai đoạn mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm.