Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

4 thói quen xấu làm hỏng răng và hàm mặt của trẻ

Thói quen mút tay hoặc môi dưới, đẩy lưỡi, thở miệng kéo dài sẽ tạo những di chuyển răng ngoài ý muốn. Chúng gây ra lệch lạc về răng và hàm mặt.

Một thói quen răng miệng xấu có thể làm di chuyển răng nếu thời gian tác động đủ dài trên 6 giờ/ngày. Nếu thời gian tác động ít hơn 6 giờ/ngày, dù lực tác động lớn, thói quen đó vẫn không làm di chuyển răng.

Mút tay

Đa số trẻ em có thói quen mút tay kéo dài đều dẫn đến tình trạng sai khớp cắn. Mút tay trong thời kỳ răng sữa không có ảnh hưởng lâu dài đến hàm răng.

Nếu thói quen này kéo dài qua thời kỳ răng vĩnh viễn bắt đầu mọc lên, sai khớp cắn là điều chắc chắn. Các biểu hiện là răng cửa trên thưa và nghiêng về phía môi; răng cửa dưới nghiêng về phía lưỡi; cắn hở vùng răng trước; hẹp cung răng trên (cung răng có hình chữ V).

Răng di chuyển nhiều hay ít phụ thuộc vào thời gian tác động của thói quen. Nếu trẻ mút tay với áp lực mạnh nhưng không liên tục và thời gian chưa đủ lâu, các răng di chuyển ít. Ngược lại, trẻ mút tay với áp lực nhẹ nhưng kéo dài hơn 6 giờ/ngày, đặc biệt những bé mút tay suốt đêm sẽ bị sai khớp cắn trầm trọng.

thoi quen xau lam hong rang anh 1

Khớp cắn hô vẩu. Ảnh: BSCC.

Mút tay có thể gây ra sai khớp cắn nếu thói quen này kéo dài đến thời kỳ răng hỗn hợp. Những di chuyển nhẹ của các răng sữa có thể thấy ở trẻ 3-4 tuổi có thói quen mút tay. Nếu thói quen chấm dứt ở thời điểm này, áp lực của môi và má sẽ tự đưa các răng sữa trở về vị trí bình thường.

Nếu thói quen kéo dài sau khi răng cửa vĩnh viễn đã mọc lên, trẻ cần phải điều trị chỉnh hình để giải quyết vấn đề sai vị trí của răng.

Đẩy lưỡi

Đẩy lưỡi ra trước khi nuốt là đặt đầu lưỡi về phía trước, chêm giữa các răng cửa trên và dưới. Trước đây, đẩy lưỡi được cho là nguyên nhân gây ra các lệch lạc về răng. Thực tế, lưỡi chỉ đặt áp lực lên răng khoảng một giây/lần nuốt. Một người chỉ thực hiện 800 lần nuốt trong toàn bộ thời gian thức và vài lần nuốt/giờ khi ngủ mỗi ngày.

Như vậy, trong một ngày, mỗi người nuốt chưa đến 1.000 lần nên lực từ lưỡi đặt lên răng là 1.000 giây, tức 20 phút/ngày. Khoảng thời gian lưỡi tác động lực lên răng quá ít, không thể làm di chuyển răng.

Khám một bệnh nhân cắn hở vùng răng trước, bác sĩ thường thấy lưỡi chêm ở giữa các răng cửa trên và dưới. Đẩy lưỡi được cho là nguyên nhân gây ra cắn hở răng trước. Thực tế, lưỡi đẩy ra trước là kết quả cắn hở vùng răng trước.

Bệnh nhân cắn hở vùng răng trước và răng cửa trên nghiêng ra trước, không thể khép kín môi lúc nuốt. Vì vậy, họ có khuynh hướng đưa lưỡi ra trước chêm giữa các răng cửa trên và dưới để đóng kín phần trước của xoang miệng. Bác sĩ không nên tập cho bệnh nhân kiểu nuốt với vị trí lưỡi không đẩy về trước nếu chưa bắt đầu chỉnh hình.

Tuy nhiên, nếu bệnh nhân có vị trí nghỉ của lưỡi nằm về phía trước, lực từ lưỡi, dù rất nhẹ nhưng thời gian tác động dài, sẽ làm di chuyển răng.

Vị trí nghỉ của lưỡi nằm về phía trước thỉnh thoảng đi kèm với đẩy lưỡi ra trước khi nuốt. Lưỡi có thể nằm về trước, sang 2 bên hoặc về phía trước, vừa sang bên.

Tùy theo vị trí của lưỡi, ta có các kiểu sai khớp cắn:

- Cắn hở vùng răng trước: Do vị trí lưỡi nằm về trước và đẩy lưỡi ra trước khi nuốt.

- Cắn hở vùng răng sau và cắn sâu: Do vị trí nghỉ của lưỡi nằm về phía sau và tràn lên mặt nhai vùng răng sau, làm lún các răng sau.

- Cắn đối đầu vùng răng trước và khớp cắn múi - múi ở vùng răng sau: Do vị trí lưỡi nằm cả vùng răng trước và răng sau.

Như vậy, chức năng và vị trí lưỡi bất thường có thể là nguyên nhân của sai khớp cắn. Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự đáp ứng của lưỡi đối với sai khớp cắn có từ trước.

Thói quen xấu của môi

Cắn môi dưới là thói quen thường gặp nhất. Dấu hiệu dễ nhìn thấy nhất là bệnh nhân có dấu của các răng cửa trên ở môi dưới và cường cơ cằm. Môi và lưỡi có thể chạm nhau trong khi nuốt.

Bệnh nhân có cắn hở vùng răng trước, răng cửa dưới nghiêng về phía lưỡi, răng cửa trên chen chúc và nghiêng về phía môi. Cắn môi trên thường gặp ở trẻ đang đi học. Đây là hội chứng nhằm làm giảm sự căng thẳng. Chức năng của lưỡi có thể bình thường.

thoi quen xau lam hong rang anh 2

Cắn môi dưới là thói quen thường gặp nhất. Ảnh: Pinteres.

Mút môi dưới có thể là nguyên phát hoặc thứ phát.

- Trong trường hợp nguyên phát, mút môi dưới làm tăng độ cắn chìa vì làm răng cửa trên nghiêng về phía môi và răng cửa dưới nghiêng về phía lưỡi. Bất hài hòa nhẹ theo chiều trước - sau giữa xương hàm trên và xương hàm dưới. Thói quen mút môi làm tăng độ cắn chìa từ nhẹ đến trung bình.

- Trong trường hợp thứ phát, độ cắn chìa lớn là do bất hài hòa nhiều giữa xương hàm trên và xương hàm dưới theo chiều trước - sau, thông thường là do hàm dưới kém phát triển. Độ nghiêng ngoài - trong của các răng cửa có thể bình thường. Môi dưới nằm giữa răng cửa trên và răng cửa dưới, là do sự đáp ứng của môi đối với sự sai lệch hình thái giữa các xương hàm.

Thở miệng

Thở miệng và rối loạn trong việc thở bằng mũi là nguyên nhân gây ra sai lệch khớp cắn. Bệnh nhân thường có kiểu nuốt nhũ nhi (đẩy lưỡi ra trước khi nuốt), khớp cắn Angle II chi I, hẹp hàm trên, cắn hở răng trước, cắn chéo răng sau một bên hoặc 2 bên, răng chen chúc trên cả 2 hàm, mặt dài, đầu hơi ngửa ra sau.

Ở bệnh nhân thở miệng, hai môi không khép kín, lưỡi nằm thấp và đẩy lưỡi ra khi nuốt. Nếu tình trạng này còn tồn tại sau khi điều trị chỉnh hình, tái phát là điều chắc chắn. Do đó, cần điều trị tai mũi họng, trả lại chức năng thở mũi bình thường trước khi tiến hành điều trị chỉnh hình.

Bài viết do BSCKI Ngô Thị Thu Thảo, khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Nam, cung cấp thông tin.

Chuyên gia cảnh báo dấu hiệu ung thư gan

Hầu hết triệu chứng sớm của ung thư gan đều bị bỏ qua vì nhầm tưởng chỉ là một phản ứng bình thường từ cơ thể.

Bác sĩ Ngô Thị Thu Thảo

Bạn có thể quan tâm