PGS.TS Trần Thành Nam - Chủ nhiệm khoa Các khoa học Giáo dục, ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) - cho hay ông và đồng nghiệp đã tiến hành một nghiên cứu đối với 400 học sinh thuộc các khối 10 và 11 đang học tại hai trường ở Hà Nội và Nam Định
Ở mỗi trường nhóm nghiên cứu chọn 200 học sinh, trong đó có 100 học sinh khối 10 và 100 học sinh khối 11. Tỷ lệ nam nữ được lựa chọn với 160 nam (40%) và 240 nữ (60%).
Theo ông Nam, lựa chọn học sinh khối 10 và 11 vì đây là độ tuổi có tỷ lệ quan tâm cao đến các vấn đề giới tính, tình bạn, tình yêu và tình dục.
PGS.TS Trần Thành Nam cho rằng 93,5% học sinh chắc chắn đã chứng kiến, gây ra hoặc từng là mục tiêu của quấy rối tình dục trực tuyến, hoặc thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội. |
Phương pháp nghiên cứu chính điều tra bằng bảng hỏi cho thấy đa số học sinh có quan điểm quấy rối tình dục là vi phạm pháp luật nhưng lại chưa biết đầy đủ các tiêu chí và biểu hiện hành vi quấy rối tình dục trực tiếp và gián tiếp.
Việc gửi tin nhắn tán gẫu về đời sống tình dục của người khác cũng bị coi là một hành vi quấy rối tình dục.
PGS Trần Thành Nam nói số liệu có thể gây sốc vì có đến 63% học sinh chắc chắn rằng hành vi quấy rối tình dục đã xảy ra trong trường học của các bạn. 91,5% học sinh chắc chắn đã chứng kiến, hoặc đã là mục tiêu của quấy rối tình dục trên thực tế.
93,5% học sinh chắc chắn đã chứng kiến, gây ra hoặc từng là mục tiêu của quấy rối tình dục trực tuyến, hoặc thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội.
Căn cứ các phương án trả lời của những bạn từng trải qua hoặc chứng kiến quấy rối tình dục học đường, hành vi quấy rối tình dục thường xảy ra nhiều nhất trên sân trường, ngoài giờ học; tiếp theo là trong các phòng tập thể dục, phòng chờ, hồ bơi hoặc những nơi kín đáo khác trong trường.
PGS.TS Trần Thành Nam cho rằng hiện chưa có văn bản pháp luật quy định về hành vi quấy rối tình dục nói chung hay hành vi quấy rối tình dục học đường.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy hành vi này được thực hiện bởi bạn học và các nhóm đồng trang lứa ở trường phổ biến hơn rất nhiều so với tỷ lệ bị quấy rối tình dục tại nơi công sở.
Theo các chuyên gia, dù phạm vi và đối tượng nghiên cứu không lớn, nó phần nào cho thấy kiến thức của học sinh về nạn quấy rối tình dục hiện nay còn hạn chế.