Nước mát là thức uống được nhiều người sử dụng trong những ngày hè. Ảnh: Phương Thảo. |
Nước mát (miền Nam gọi là nước sâm) là tên gọi chung cho các loại nước giải khát được nấu từ những vị thuốc Nam như râu bắp, bông cúc, kỷ tử, mã đề…
Nguyên liệu và tác dụng
Theo bác sĩ chuyên khoa II Huỳnh Tấn Vũ, Đại học Y Dược TP.HCM (cơ sở 3), nguyên liệu nấu nước mát rất đa dạng, dễ tìm và có nhiều công dụng ngoài giải nhiệt. Dưới đây là công dụng của một số nguyên liệu được nhiều gia đình dùng để nấu nước mát ngày hè:
Rong biển
Rong biển có hàm lượng dinh dưỡng cao; chứa nhiều khoáng chất, đặc biệt là canxi, i-ốt; hàm lượng cholesterol thấp. Ngoài ra, rong biển còn có chất fertile clement, tốt cho thai phụ và trẻ em.
Theo y học cổ truyền, rong biển màu đen hoặc xanh, vị mặn, ngọt nhẹ, tính mát, quy vào kinh thận, bổ được thận âm và thận khí. Nước rong biển vì vậy rất thích hợp để bồi dưỡng cho những người gầy yếu, tiêu hóa không tốt, thường cảm thấy nóng lòng bàn tay chân, tiêu bón, da dẻ không mềm mại, khô khát thích uống nước hoài.
Rễ tranh
Theo Đông y, rễ cỏ tranh có màu trắng hoặc vàng nhạt, vị ngọt, tính hàn, vào các kinh tâm, phế, tỳ, vị và bàng quang, giúp thanh nhiệt, lợi tiểu, thanh phế nhiệt (làm mát cái nóng ở vùng ngực, dùng tốt trên người có ho mà nóng ran ngực).
Tuy nhiên, người gầy, suy kiệt nhiều nên hạn chế dùng vì đây là thức uống lợi tiểu, nếu uống nhiều dễ khiến cơ thể mất nước.
Mía lau
Mía lau thân nhỏ, mảnh hơn so với các loại mía khác, vị ngọt, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, trợ tỳ, kiện vị (giúp ăn ngon miệng), lợi đại tiểu trường (đi tiêu tiểu dễ), làm mát, giảm ho, giảm nóng, giải độc rượu, giải được các sức nóng của thuốc.
Đặc biệt, mía lau có tác sinh tân (làm mát bằng cách tạo thêm tân dịch) nên không gây mất nước dù có tính năng lợi tiểu, có thể dùng lâu dài. Tuy nhiên, người nóng trong người có ho, ho khi gặp lạnh lại không nên dùng loại nước này.
Râu ngô (râu bắp)
Theo y học cổ truyền, râu ngô có vị ngọt, tính bình, quy kinh thận, bàng quang, có công năng lợi tiểu, giảm phù, thông lợi mật, thanh huyết nhiệt (làm giảm nóng nảy, bứt rứt, mụn nhọt), chỉ huyết.
Đối với người mập, râu ngô làm tăng acid uric, tăng cholesterol máu, làm nước uống hàng ngày rất tốt cho sức khỏe.
Râu ngô giúp thanh nhiệt, là nguyên liệu nấu nước mát quen thuộc của nhiều gia đình mùa nóng. Ảnh: Freepik. |
Bông cúc
Bông cúc (tên thuốc bắc là cúc hoa) có vị ngọt đắng, tính hơi hàn, có tác dụng giải cảm hạ sốt tiêu viêm, giải độc (làm giảm sưng viêm các mụn nhọt), làm sáng mắt.
Vì vậy, bông cúc đặc biệt cần thiết cho những người mắt mờ, mắt hay khô cộm, hoặc dễ bị kích ứng mắt, đỏ mắt, mắt nhắm lại thấy nóng, người bị tăng huyết áp nhức mắt, nhức thái dương, nặng nửa đầu, khó ngủ, nửa đêm hay tỉnh.
Tuy nhiên, người ăn uống khó tiêu, dễ lạnh bụng, ăn dễ trúng, dễ tiêu chảy, tay chân bủn rủn, yếu sức không nên dùng.
Mã đề
Mã đề có tính mát, vị ngọt, có tác dụng lợi tiểu, thanh nhiệt, được dùng làm thuốc thông tiểu, chữa ho lâu ngày, viêm amidal, viêm bàng quang, đau mắt đỏ tác dụng lợi tiểu, giải độc.
Mã đề là một vị phụ thêm vào các loại nước mát, không dùng cho người gầy ốm và hay khó tiêu lạnh bụng.
Lẻ bạn (Lão bạn
Trong Đông y, cây lẻ bạn vị ngọt, nhạt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, chống viêm, cầm máu, nhuận phế, giảm ho, giải độc.
Bí đao
Bí đao có tác dụng giải nhiệt, phòng say nắng, khô miệng, mụn nhọt, ban sởi. Ngoài ra, loại quả này còn có tác dụng giảm cân, rất tốt cho người bị xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành, huyết áp cao, bị phù do viêm thận.
Tuy nhiên, bác sĩ Vũ khuyến cáo mọi người tuyệt đối không dùng bí đao sống hoặc nước ép bí đao sống vì sẽ gây rối loạn tiêu hóa.
Mướp đắng (khổ qua)
Loại quả này có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, chống say nắng, sáng mắt, nhất là khi bị kiết lỵ do nóng.
Ngoài ra, trong điều kiện trời nóng, những người dễ bị ra mồ hôi hay bị nổi rôm sảy, ngứa, nấu nước khổ qua tắm một lần mỗi ngày làm giảm ngứa rõ rệt.
Mướp đắng có thể phơi khô dùng làm trà giải nhiệt hoặc nấu nước tắm trị rôm sảy. Ảnh: Freepik. |
Bác sĩ Vũ nhận định nước mát nhìn chung khá an toàn vì được chế biến từ những cây cỏ là thức ăn, vị thuốc được sử dụng rộng rãi. Các loại nước nước mát đều có công dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết chỉ khát, thường được dùng để phòng ngừa và giải trừ tình trạng “tích nhiệt” trong cơ thể.
Không phải ai cũng có thể uống nước mát
Theo bác sĩ Vũ, mọi người có thể dùng nước mát khi cơ thể bị nhiệt, có cảm giác bức rức, khát nước, khô họng miệng, tiểu ít, da bị nhọt lở, miệng lưỡi lở…
Ngoài ra, thức uống này cũng có thể sử dụng như nước uống thông thường, nhằm giải độc cho cơ thể, bổ sung nước và vi chất trong mùa nắng nóng ra mồ hôi nhiều.
Tuy nhiên, người dân không nên uống quá nhiều nước mát vào khoảng thời gian sau buổi tối do thức uống này có thể gây ra hiện tượng đi tiểu nhiều lần trong đêm.
Ngoài ra, người tạng hàn (dễ bị lạnh, dễ cảm, ăn uống hay trúng…) hoặc đang suy nhược cơ thể, phải thận trọng khi dùng nước mát. Nước mát tác dụng lợi tiểu, nếu dùng lâu dài thay nước uống có thể mất cân bằng điện giải, kém hấp thu một số vi khoáng như canxi, kali…
Khi cơ thể có đang mắc những bệnh cấp và mạn tính, bệnh nhân cần phải được chỉ định và hướng dẫn sử dụng nước mát đúng mức.
Bác sĩ Vũ lưu ý người đái tháo đường không thể sử dụng công thức có mía lau.
Người bị suy thận mạn tính cần phải tính toán kỹ lượng nước nạp vào, kể cả nước uống thường. Khi sử dụng nước mát từ các dược liệu có chứa các ion và các vi chất không kiểm soát hàm lượng, tình trạng suy thận có thể diễn tiến nặng hơn…
Ngoài ra, người khỏe mạnh cũng không nên dùng liên tục nước mát hàng ngày và thường xuyên. Mọi người lưu ý chỉ nên sử dụng trong một thời gian ngắn và thay đổi thường xuyên các thành phần nấu nước mát cho gia đình.
Đối với việc lựa chọn nguyên liệu nấu nước, mọi người nên chọn các nguyên liệu tươi mới, không bị dập nát hoặc nguyên liệu khô, không bị ẩm mốc hay để lâu dẫn đến biến chất.
Cuốn sách bên bờ sự sống
Ngành y là ngành luôn chứng kiến ranh giới sự sống - cái chết của người khác, nhưng Khi hơi thở hóa thinh không lại là một cuốn sách đặc biệt khi nó là khoảnh khắc đối diện cái chết của người viết trong cả vai trò bác sĩ lẫn bệnh nhân. Cuốn hồi ký được bác sĩ thần kinh Paul Kalanithi viết khi căn bệnh ung thư trở nặng, anh ngồi trên xe lăn và nhớ về những tháng ngày cống hiến cho ngành y.