Ngày 27/5, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức hội nghị góp ý về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015. Khoản 3, Điều 19 về việc luật sư tố giác thân chủ được nhiều đại biểu quan tâm thảo luận.
Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (đoàn Khánh Hòa), Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, cho rằng điều tra tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Luật sư với trách nhiệm người bào chữa và trách nhiệm công dân, luật sư phải ứng xử thế nào cho đúng với vị trí của mình.
"Nếu luật sư tố giác tội phạm thì chính thân chủ đó có mời luật sư nữa không? Xã hội có tẩy chay nghề luật sư không? Chưa bảo vệ được gì đã đi tố giác rồi thì không biết nghề luật sư có điều kiện tồn tại hay không?", đại biểu Thịnh băn khoăn.
Đại biểu Quốc hội Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Ảnh: Thắng Quang. |
Theo Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, qua trao đổi với các chuyên gia nước ngoài, ở nước họ trường hợp biết thân chủ của mình chuẩn bị thực hiện tội phạm hoặc lên kế hoạch thực hiện tội phạm thì báo cho cơ quan nhà nước. "Nhưng họ chỉ khoanh lại trong những tội đặc biệt nghiêm trọng như khủng bố, lật đổ chính quyền. Còn những tội phạm đã thực hiện rồi thì miễn trừ cho luật sư”, ông Thịnh nói và đề nghị cần giảm số tội mà luật sư phải tố giác.
Trước ý kiến này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đặt câu hỏi với Liên đoàn Luật sư Việt Nam là trước khi sửa bộ luật này có điều gì làm thui chột nghề luật sư chưa?
Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng luật sư biết thân chủ phạm tội rất nghiêm trọng mà không tố giác thì phải xem lại.
"Ở đây, tôi hiểu nên giới hạn trong tội nào, chứ đúng là luật sư cứ đi tố giác thân chủ thì không được. Nhưng cũng phải giới hạn tội nào thì anh không thể làm ngơ được. Biết thân chủ phạm tội rất nghiêm trọng mà không tố giác thì luật sư hoàn thành nghĩa vụ của mình, nhưng nó ảnh hưởng tới quốc gia, tới nhiều người dân vô tội nữa nên làm ngơ là không được", bà Ngân nói.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu ý kiến. Ảnh: Thắng Quang. |
Tranh luận lại quan điểm của đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh, đại biểu Nguyễn Thái Học (đoàn Phú Yên) cho biết bản thân ông rất suy nghĩ và từng có thời gian 8 năm hành nghề luật sư nên rất hiểu và chia sẻ. Nhưng, quan điểm của ông là ủng hộ khoản 3 điều 19 vì quy định như thế là luật đã ghi nhận vai trò, trách nhiệm của luật sư, cũng ghi nhận mối quan hệ đặc biệt giữa luật sư với thân chủ.
"Bố mẹ, anh chị em vợ chồng có nghĩa vụ tố giác tội phạm là những người thân thích của mình, thì bản thân luật sư với mối quan hệ đặc biệt với thân chủ cũng có trách nhiệm trong việc tố giác tội phạm. Luật giới hạn luật sự chỉ tố giác tội phạm an ninh quốc gia, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, chứ không mọi tội phạm” đại biểu Học nêu.
Đề nghị thu hẹp tội phải tố giác
Tại hội nghị, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (đoàn TP.HCM) phân tích quan hệ giữa luật sư với thân chủ là một trong những vấn đề rất quan trọng của hệ thống tư pháp.
Theo ông Nghĩa, xuất phát từ công ước về quyền con người mà chúng ta ký thì Liên Hợp Quốc ban hành Nghị quyết về quan hệ giữa luật sư và người được bào chữa. Trong nghị quyết này có ghi là các Nhà nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện để bảo vệ quyền bí mật giữa luật sư và thân chủ”, ông Nghĩa cho hay.
Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa (đoàn TP.HCM) phát biểu sáng 27/5. Ảnh: Thắng Quang. |
“Một ông đi tố giác ông hàng xóm, biết cái gì đi tố giác đã nguy hiểm. Một ông luật sư đi tố giác chính người mình bào chữa, sau tòa xử không phạm tội, ông tố giác bậy thì làm sao?” đại biểu Nghĩa dẫn chứng.
Đại biểu Nghĩa đề nghị có thể không cần thu hẹp tội phải tố giác vì quá nhiều, nhưng bổ sung 3 điều kiện là luật sư phải biết rõ, có chứng cứ và nếu những hành vi đấy không được tố giác sẽ dẫn đến nguy hiểm cho xã hội.
Điều 19 (Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015) quy định:
1. Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong các trường hợp quy định tại Điều 390 của Bộ luật này.
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.
3. Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.