N
ăm 2018, điểm chuẩn các trường đại học đều giảm khiến dư luận e ngại, đặc biệt là những trường xưa nay vốn có điểm đầu vào rất cao. Chẳng hạn, ĐH Y Hà Nội có điểm chuẩn cao nhất là 24,75, trong khi năm ngoái là 29,25. Thậm chí, có ngành như Y tế Công cộng xuống đến 18,1.
Điểm trúng tuyển của ĐH Y dược TP.HCM là 24,95, so với năm ngoái 29,25. Mức trúng tuyển của ĐH Bách Khoa (ĐH Quốc gia TP.HCM) cũng giảm mạnh, 28 điểm năm ngoái, năm nay còn 23,25 điểm.
Xu hướng này nói lên điều gì và liệu có thực sự đáng lo ngại? Zing.vn giới thiệu bài viết của TS Phạm Thị Ly, chuyên gia giáo dục, về vấn đề này. Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả.
Điểm trúng tuyển cao nhất của các trường đại học trong năm 2017 và 2018. Ảnh: Minh Nhật. |
Tương quan giữa điểm số và năng lực
Điểm chuẩn vào đại học phụ thuộc nhiều yếu tố: Yêu cầu của nhà trường về năng lực tối thiểu để có thể tiếp thu chương trình đào tạo, mức độ “hot” của ngành nghề mà trường đào tạo và đặc biệt trực tiếp là cán cân cung cầu (số thí sinh muốn vào trường, và khả năng tiếp nhận của trường).
Ở Mỹ, mức độ cạnh tranh khi vào trường (tỷ lệ thí sinh được nhận trên tổng số ứng viên), cũng như mức điểm trung bình để xét tuyển là hai yếu tố được xem có ý nghĩa quan trọng biểu hiện uy tín của trường. Vì thế, nó là một trong những thước đo của xếp hạng đại học. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam, những yếu tố đó chỉ có ý nghĩa tương đối.
Tạm gác sang một bên vấn đề tiêu cực trong thi cử, chúng ta hãy giả thiết mức độ tiêu cực bằng không, thì điểm số có tương quan như thế nào với năng lực nói chung, và năng lực học đại học và thành công trong cuộc sống nói riêng?
Không có gì đảm bảo một thí sinh đỗ đại học với 25 điểm sẽ học kém hơn bạn cùng khóa có điểm đầu vào 26, 27 hay 28, vì kết quả học tập trong quá trình đào tạo còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác. Ngay cả trong trường hợp “những yếu tố khác” đó như nhau, cũng vẫn không có gì đảm bảo hai thí sinh này sẽ có kết quả học tập và mức độ thành công trong cuộc sống tỷ lệ thuận với điểm thi mình đạt được.
Tất nhiên cần có nghiên cứu để khẳng định điểm thi có tương quan như thế nào với kết quả học tập và mức độ thành công về sau, nhưng về mặt lý thuyết, mối tương quan này trước hết phụ thuộc thiết kế đề thi. Tức là, bài thi nhằm đo lường điều gì và đề thi phục vụ cho mục tiêu đó ở mức độ nào?
Kỳ thi THPT quốc gia vẫn thuần về đánh giá khả năng ghi nhớ và kỹ năng làm bài thi của thí sinh trong 12 năm học. Ảnh: Lê Quân. |
Đến nay, đề thi, dù là tự luận hay trắc nghiệm, vẫn chủ yếu đo lường kiến thức tích lũy được và kỹ năng làm bài. Không kể các trường hợp ngoại lệ, có thể nói thực tế ở Việt Nam hiện nay, hầu hết thí sinh học thêm, luyện thi sẽ làm bài tốt hơn những em tuyệt đối không học thêm, không luyện thi.
Cần mở ngoặc để nói rằng điều này chỉ là nhận xét dựa trên quan sát và trao đổi với những người trong cuộc, trong lúc lẽ ra các viện nghiên cứu về giáo dục cần phải thực hiện những công trình để tìm kiếm dữ liệu nhằm khẳng định hay bác bỏ những nhận định như thế.
Thêm vào đó, lẽ ra cần có những nghiên cứu/đánh giá độc lập để trả lời câu hỏi đề thi hiện nay của chúng ta đang thực sự đo lường điều gì và những điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc đi xa hơn trên đường học tập, nghiên cứu, tìm kiếm tri thức, hay trong thực tiễn hành nghề và cuộc sống sau này.
Nếu nhận xét nêu trên là đúng, những đề thi có tính chất đánh đố chẳng những làm méo mó quá trình giáo dục ở phổ thông, mà cũng không đo lường được tiềm năng của thí sinh trong việc tiếp thu quá trình đào tạo ở bậc đại học và đi xa hơn nữa khi tốt nghiệp.
Cần lưu ý đo khối lượng kiến thức tích lũy được không phải lúc nào cũng là điều dở. Thi lý thuyết lái xe chẳng hạn, việc đo xem thí sinh có nhớ đầy đủ những gì cần phải nhớ hay không là điều quan trọng. Không hiểu, không nhớ, hay hiểu sai một biển báo giao thông là tai nạn có thể xảy ra trong chớp mắt.
Tuy nhiên, thi vào đại học không giống thi bằng lái xe. Bằng lái xe chỉ đòi hỏi người ta hiểu, nhớ các quy tắc giao thông và kỹ năng điều khiển chiếc xe. Bằng đại học đòi hỏi sinh viên không chỉ nhớ kiến thức được học, mà sử dụng những kiến thức đó để tạo ra kiến thức mới và vận dụng linh hoạt trong đời sống.
Bởi vậy, kỳ thi vào đại học không nhằm tìm kiếm người nhớ được nhiều nhất, mà tìm người có khả năng học được cái mới và tạo ra cái mới. Đề thi do đó cần phải đo năng lực thay vì đo kiến thức, tuy năng lực nào cũng dựa trên một nền kiến thức nhất định. Kể cả khi đề thi được thiết kế để đo năng lực, điểm bài thi cũng chỉ nên là một phần trong các yếu tố xem xét mức độ phù hợp và tiềm năng của thí sinh.
Vì thế, điểm đầu vào của các trường năm nay dù có giảm sút so với năm trước, cũng không phải điều gì nghiêm trọng, đáng lo ngại. Nó chỉ là cơ hội cho ta nhìn lại vấn đề điểm số có ý nghĩa như thế nào trong việc đánh giá năng lực và tiềm năng, và cần phải làm gì để việc tuyển sinh đại học đạt mục tiêu tìm được những người phù hợp nhất, có tiềm năng cao nhất.
Tính khả tín
Tiêu cực trong thi cử là chuyện dài nhiều tập ở Việt Nam, không phải vấn đề riêng của năm nay. Có lẽ không cần nhắc lại những vụ nổi bật trong những năm gần đây, mọi người đều hiểu tiêu cực trong thi cử là vấn đề không thể xem nhẹ ở Việt Nam.
Mức độ nghiêm trọng và quy mô của những vụ tiêu cực được phát hiện trong kỳ thi năm nay đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới niềm tin của xã hội về mức độ khả tín của kết quả thi.
Hiện không có cơ sở để xác định mức độ khả tín của điểm thi năm nay, cũng như các năm trước, vì chúng ta không có dữ kiện để đánh giá quy mô của tiêu cực tuyển sinh những năm qua.
Như đã nói, kể cả trong trường hợp không có tiêu cực trong tuyển sinh, điểm thi cũng không phải thước đo năng lực hoàn toàn đáng tin cậy, với cách ra đề và tổ chức thi của Việt Nam hiện nay.
Vì thế, hai khuyến nghị có thể rút ra là không tuyệt đối hóa vai trò của điểm thi trong việc xem xét năng lực của thí sinh, và cải cách khảo thí cần sớm được nghiên cứu thực hiện.
Mức điểm trúng tuyển thấp nhất vào các trường ĐH Huế, Thái Nguyên và Tiền Giang qua các năm. Ảnh: Nguyễn Sương. |
Cải cách khảo thí
Mấy năm nay, cách thức thi cử thay đổi thường xuyên và liên tục, có phần là vì cơ quan quản lý dựa trên thực tế “học để thi” của Việt Nam, cho rằng thay đổi cách thi thì người học sẽ thay đổi cách học, từ đó tạo ra chuyển biến tích cực trong chất lượng dạy và học. Các văn bản và nghị quyết ở cấp bộ và cấp cao hơn đều nêu rõ tinh thần giảm nhẹ áp lực thi cử và gánh nặng tốn kém cho xã hội.
Tiếc rằng ý định tốt đẹp này đã không tạo ra kết quả mong muốn. Thực tế, tâm lý học để thi không hề giảm sút, áp lực thi cử không bớt đi, và số tiền cả xã hội bỏ ra cho việc luyện thi, tổ chức thi, có thể hình dung lớn như thế nào, chưa nói tới việc mua điểm dưới nhiều hình thức và ở các cấp học.
Đó là vì những vấn đề gốc rễ của khảo thí chưa được giải quyết. Những vấn đề đó là:
Áp lực chỉ một kỳ thi mỗi năm: Nếu như thi THPT quốc gia hay tuyển sinh năng lực được tổ chức nhiều lần trong năm với một mức phí vừa phải, người học có thể thi bao nhiêu lần cũng được, áp lực sẽ giảm. Cùng với nó là các bài thi thử miễn phí, kiểu như học thi bằng lái xe hay thi thử TOEFL, IELTS để thí sinh luyện tập, áp lực cũng sẽ giảm, vì ai cũng có cơ hội làm lại nhiều lần.
Cách ra đề: Có nhiều ý kiến lên án cách thi trắc nghiệm. Nhưng thi trắc nghiệm là cách kiểm tra đánh giá phổ biến trên thế giới vì tính tiện dụng và hợp lý của nó. Cũng như mọi phương pháp khác, dĩ nhiên thi trắc nghiệm có những nhược điểm nhất định, nhưng nó vẫn là phương tiện phổ biến, và được sử dụng kết hợp tự luận hoặc các hình thức đánh giá khác.
Tuy nhiên, gánh nặng đặt ra đối với việc ra đề là rất lớn. Đề thi phải được nghiên cứu và thử nghiệm bài bản để phục vụ cho những mục đích cụ thể của việc đánh giá. Những kỳ thi có mục đích khác nhau phải có cách ra đề khác nhau. Cần phải có thêm nhiều nghiên cứu và đánh giá độc lập về những đề thi cấp quốc gia đã được sử dụng từ trước đến nay.
TS Phạm Thị Ly. Ảnh: NVCC. |
Cách sử dụng kết quả thi: Hiện nay, điểm thi THPT quốc gia vẫn là tiêu chí quan trọng nhất để xét tuyển đại học. Một số trường dùng thêm các tiêu chí khác bổ sung, nhưng vẫn coi điểm thi THPT quốc gia là điều kiện cơ bản.
Điều này nên được thay đổi. Điểm thi chỉ nên là một phần, thậm chí là phần thứ yếu, trong việc đánh giá năng lực thí sinh và xét tuyển vào đại học. Bảng điểm của các tổ chức khảo thí uy tín như TOEIC, TOEFL, IELTS, nên được chấp nhận thay cho môn thi ngoại ngữ. Điểm thi SAT/ACT nên được chấp nhận thay thế cho điểm thi năng lực hoặc điểm đầu vào của đại học. Các hình thức khác như bài tự luận, thư giới thiệu, phỏng vấn trực tiếp, thành tích hoạt động cộng đồng, video tự giới thiệu, nên được coi trọng nhiều hơn.
Ngoài ra, việc áp dụng những cách tuyển sinh đã thành phổ biến trên thế giới đòi hỏi phải huấn luyện đội ngũ tuyển sinh "có tay nghề", trước hết tập trung một số trường lớn và có điều kiện, chứ không làm tràn lan. Cần có giải pháp phòng ngừa tiêu cực nảy sinh ở những phương thức tuyển sinh mang tính chủ quan tương đối lớn (thư giới thiệu, phỏng vấn trực tiếp...). Tốt nhất vẫn là kết hợp nhiều phương thức đánh giá khác nhau.
Thay cho cải cách những vấn đề trên, những năm qua, chúng ta phí sức cho việc xây dựng quy trình tổ chức thi cử, trong thực tế đã tạo ra một quy trình chặt chẽ đến mức con kiến không chui lọt, nhưng con lạc đà thì vẫn qua được. Quy trình chặt chẽ tất nhiên là cần thiết, nhưng dù chặt chẽ tới đâu thì nó vẫn do con người vận hành. Con người đã nghĩ ra cái khóa thì cũng nghĩ ra cái chìa để mở khóa, vì thế quy trình không phải cái gốc của cải cách khảo thí.
Nhìn xa hơn, cái gốc vấn đề vẫn là vai trò của tấm bằng trong việc dùng người. Cách chấm dứt tiêu cực thi cử và bảo vệ giá trị tấm bằng tốt nhất là bảo đảm rằng tấm bằng nếu không đi cùng giá trị mà nó là biểu tượng, thì sẽ trở thành một mảnh giấy vô giá trị.