Chúng ta không khỏi giật mình khi biết mỗi người tiết ra khoảng 100 lít nước mắt mỗi năm. Chúng đi đâu hết? Bay hơi, còn lại sẽ chảy xuống mũi họng qua ngách lệ mũi.
Vai trò của nước mắt
Chẳng có gì đáng bàn nếu bạn không phải là bác sĩ mắt hay người có bệnh lý đó về chế tiết nước mắt. Câu nói đùa của tôi với bệnh nhân: nhiều nước mắt giống như nhiều tiền, luôn tốt hơn là thiếu nước mắt (thiếu tiền). Thực ra không luôn luôn là vậy. Nước mắt có vai trò to lớn trong việc làm ẩm bề mặt nhãn cầu, dinh dưỡng cho lòng đen (giác mạc), đảm bảo tính trong suốt cho các môi trường quang học phía trước, rửa trôi bụi bẩn, chống xâm nhập của các vi sinh vật có hại.
Khi có kích thích của môi trường như lúc thái hành, mắt sẽ tiết ra nước mắt phản xạ. Nước mắt tiết do cảm động có thể coi là một dạng chế tiết phản xạ, nhưng trong thành phần giàu protein và hormon hơn. Nước mắt cơ bản hay thường trực mới là dạng tối quan trọng, làm ẩm ướt cho mắt thường xuyên, bảo vệ và dinh dưỡng cho bề mặt nhãn cầu bao gồm giác mạc - lòng đen và kết mạc - lòng trắng.
Nước mắt khi che phủ trên bề mặt nhãn cầu có vi cấu trúc như một film mỏng gồm 3 lớp. Ảnh: Mother Nature Network. |
Trong nước mắt có gì?
Khi che phủ trên bề mặt nhãn cầu, nước mắt có vi cấu trúc như một film mỏng gồm 3 lớp. Lớp trong cùng là nhầy mucin,giúp trải rộng và phẳng nước mắt. Lớp nước ở giữa dày nhất làm ẩm mắt, loại bỏ vi khuẩn, bảo vệ lòng đen. Lớp mỡ ở ngoài cùng chống bay hơi nước mắt, đảm bảo độ trong suốt về quang học.
Những thành tố chung nhất của nước mắt bao gồm nước, enzym, mỡ, chất bã chuyển hóa và một số chất điện giải. Chúng ta chưa biết nhiều về thành phần hóa học của nước mắt cảm động.
Một vài nhà khoa học cho rằng nó chứa nhiều protein và hormon vốn không thấy ở nước mắt thường trực và nước mắt phản xạ. Ngoài ra, nước mắt cảm động còn có hàm lượng cao về prolactin, adrenocorticotropic hormon, Leu-enkephalin, kali và mangan.
Vài nghiên cứu viên khác đưa ra giả thiết rằng việc phóng thích các hormon liên quan đến stress,như leu-enkephalin có thể giúp điều hòa cơ thể, đem lại trạng thái thăng bằng nội môi. Tuy nhiên giả thiết này còn phải nghiên cứu thêm để khẳng định.
Khi bị... thừa nước mắt
Người ta hiếm khi thừa nước mắt, dù là điều này đôi khi xảy ra. Đó là khi nước mắt bị chế tiết nhiều một cách bệnh lý: hội chứng nước mắt cá sấu, tình trạng cường hoạt động dây VII, sau khi liệt dây VII, viêm nhiễm của tuyến lệ hay bề mặt nhãn cầu kích thích tăng tiết nước mắt... Một trạng thái khác là nước mắt không tăng tiết, nhưng có vấn đề về hệ thống dẫn nên cứ bị dềnh lên và chảy ra ngoài.
Chúng ta gặp vô khối tình trạng bệnh lý kiểu này: tắc hệ thống lệ do bẩm sinh, do sỏi đường lệ, chít hẹp do chấn thương hay bỏng. Tình trạng mi và điểm lệ bị lật ra ngoài do tuổi già, do liệt dây VII cũng làm nước mắt chảy sai đường, tràn ra mi. Rõ ràng là thừa hay chảy nước mắt nhiều ít khi gây hại, có chăng là phải chấm chùi gây nhiều phiền toái. Cá biệt có cụ bà chấm chùi nước mắt nhiều năm gây chàm da mi hoặc lật mi ra ngoài.
Cần lắm nước mắt
Không có nước mắt hoặc thiếu nó mới là thảm họa. Đau rát, bong tróc bề mặt giác mạc vẫn sẽ hành hạ người bệnh cho dù thuốc men, phẫu thuật đã giúp người bệnh phần nào. Trẻ sơ sinh vốn thiếu nước mắt do tuyến lệ chưa phát triển nhưng may thay chúng cũng không bị hao nước mắt do ngủ suốt ngày, mi luôn được nhắm kín giữ nước mắt bên trong.
Người dị ứng thuốc, bỏng mắt, viêm mạn tính và xơ hóa tuyến lệ cũng thiếu nước mắt triền miên. Con người cũng đã loay hoay khắc phục thiếu nước mắt khá hiệu quả bằng thuốc: các dạng dược phẩm mô phỏng nước mắt tự nhiên; các thuốc có độ nhớt cao, bảo vệ và che phủ phim nước mắt, chống bay hơi nước mắt; các thuốc tăng tính bền chắc của phim nước mắt; các thuốc kích thích tăng tiết nước mắt; chống viêm nếu có nguyên nhân viêm của kết mạc hay tuyến lệ chính. Phẫu thuật, kính tiếp xúc, huyết thanh điều trị cũng được chỉ định cho một số trường hợp thiếu nước mắt nặng.
Càng lớn tuổi, bạn sẽ càng thiếu nước mắt do thay đổi về hormon, đặc biệt là khi mang thai và giai đoạn mãn kinh. Viêm mi mắt ở người cao tuổi cũng làm giảm thành phần mỡ trong film nước mắt, gia tăng tình trạng ngứa và sưng nề của mi.
Vài bí mật về nước mắt khi ta khóc
Hầu hết nhà nghiên cứu tin rằng nước mắt cảm động - gây nên bởi trạng thái xúc động mạnh quá vui hoặc quá buồn - vốn chỉ có ở con người. Đang có nhiều nghiên cứu về cơ chế của hiện tượng khóc, nhờ đó chúng ta biết thêm nước mắt cảm động bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: sinh học, tâm lý và xã hội. Charles Darwin từng công bố nước mắt cảm động tiết ra không có mục đích.
Nhưng càng về sau này, người ta đã biết thêm nước mắt liên quan đến vấn đề xã hội và nâng đỡ các hành vi đi kèm với nó. Các nhà tâm lý học tin rằng khóc là một dạng thức ngôn ngữ của loài vật. Trẻ em, sơ sinh vốn chưa phát triển đầy đủ hệ thống lệ đạo nên không thể tiết chảy ra nước mắt như người lớn, nhưng vẫn gào khóc để thu hút chú ý của người chăm sóc và giám hộ.
Trong suốt thời thơ ấu và trước dậy thì, những đau đớn về cơ thể cũng là nguyên nhân gây ra nước mắt cảm động, nhưng sẽ giảm dần theo tuổi. Chúng ta khi ở tuổi trưởng thành, nước mắt cảm động cũng tiết ra nhiều khi vướng vào các dạng cảm xúc như đau đớn về thể xác, khi đau nói chung, đồng cảm, xót thương, công phẫn và sẻ chia về mặt xã hội hay vấn đề đạo đức.