Mẹ ơi! Nhớ Tết năm nào / Mẹ mua guốc mới ướm vào chân con / Con đi lếch thếch trên giường / Đợi ngày mồng 1 ra đường mới tinh.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hằng Phương viết về Tết của tuổi thơ. Với thi sĩ, Tết lại nhớ về đôi guốc mới hồi tuổi nhỏ, mẹ mua cho chỉ dám đi thử trên giường, để dành đến Tết cho mới.
Muôn nẻo Tết trong tâm hồn thi sĩ
Thủa bé tôi đeo chiếc khăn vàng / Quần đào xé đũng, áo hàng lam / Chân đi hài nhỏ tay thu pháo.
Đó là những câu thơ miêu tả một chú bé đón Tết vào đầu những năm 30 của thế kỷ 20 đầu thế kỷ 20 của nhà thơ Lan Sơn.
Mang hương vị đậm đà nhất là những cái Tết ở quê hương. Đối với người Việt, nó là Tết của tuổi ấu thơ. Hơn nữa, nông thôn là nơi trầm lắng nhất những tập tục cổ truyền. Phiên chợ tất niên ở miền quê nào cũng rộn ràng, náo nức.
Cảnh chợ Tết 100 năm trước của người Việt. Nguồn: Đại Nam Phục Ảnh. |
Miêu tả về chợ Tết của vùng quê Nam Định đầu thế kỷ 20, nhà thơ Đoàn Văn Cừ viết:
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ / Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán / Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản / Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân / Cụ đồ Nho dừng lại vuốt râu cằm / Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ / Bà cụ lão bán hàng trên miếu cổ / Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Qua những câu thơ của Đoàn Văn Cừ, cảnh đi chợ, họp chợ, tan chợ diễn ra rất thật, sinh động, hóm hỉnh, gợi cả linh hồn làng mạc, cư dân. Đọc bài thơ như sống lại trong làng xưa tết cũ. Không khí phiên chợ Tết này đủ sức làm giàu tâm hồn chúng ta cả hương vị truyền thống lẫn tinh thần dân tộc.
Trước Đoàn Văn Cừ nửa thế kỷ, cụ Nguyễn Khuyến, trong bài “Một cái Tết tha hương”, cũng từng lưu luyến phiên chợ Tết quê nhà:
Tháng Chạp hai mươi bốn chợ Đồng / Năm nay chợ họp có đông không?
Một ông cụ nhớ cái rét của đồng bằng Bắc Bộ, nhớ tập tục nếm rượu của các bô lão trong làng khi mua rượu đe tế cung đình:
Gió giời mưa bụi còn hơi rét / Nếm rượu tường đền được mấy ông.
Giọng thơ chân thật, chi tiết, thân thuộc của phiên chợ Tết ở làng quê nghèo nhỏ nhoi, xao xác nhưng nỗi nhớ Tết, nhớ làng trong tâm trí người Việt lại thật sâu đậm.
Tú Xương, một nhà thơ nổi tiếng nước Việt cũng từng miêu tả về Tết xưa như sau:
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy / Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu / Bánh chưng sắp gói em nồng cháy / Giò lụa toan làm, sợ nắng hiu.
Nguyễn Bính, một nhà thơ thành Nam từng viết rất nhiều bài thơ Tết, trong đó đoạn:
Có chiếc thuyền nằm trên cát mịn / Có đàn trâu trắng lội qua sông / Có cô thợ nhuộm về ăn Tết / Sương gió đường xa rám má hồng.
Những câu thơ lột tả hình ảnh những trai gái làng xa quê kiếm sống ngày một nhiều, cũng “hoàn cảnh” lắm. Câu thơ cộng hưởng với bao số phận của người về quê đón Tết.
Trong bài thơ "Xuân tha hương", thi sĩ Nguyễn Bính tiếp tục lột tả nỗi lòng của người xa xứ lúc năm hết, Tết đến với những câu thơ được tác giả Vũ Quần Phương đánh giá là “rất đắt”:
Cột nhà hàng xóm lên câu đối / Em đọc tương tư giữa giấy hồng / Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết / Một mình em vẫn cứ tay không / …Chị ơi Tết đến em mua rượu / Em uống cho say đến não nùng / Uống say cười vỡ ba gian gác / Ném cái chung tình xuống đáy sông.
Đêm giao thừa và nỗi niềm Tết đến
Giao thừa cũng là thời điểm được khá nhiều nhà thơ ký thác nỗi niềm. Trong "Quốc âm thi tập" thế kỷ 15, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi từng viết: Chong đèn chực tuổi canh con mắt / Đốt trúc khuy na đắng lỗ tai.
Từ 2 câu thơ, tác giả muốn ký thác nỗi niềm: Qua giao thừa là thêm tuổi mới. Thức khuya nên cay mắt. Từ cay mắt chuyển đến đắng tai.
Theo Vũ Quần Phương, từ “cay mắt” đến “đắng tai” là cách chơi chữ tài tình của tác giả. Lẽ thường phải là “ù tai” nhưng “đắng tai” là để chiếu vào chữ “cay mắt” ở trên. Thêm một tuổi là thêm một lần thu cay đắng vào giác quan.
Phút giao thừa nối năm mới và năm cũ cũng được cụ Nguyễn Khuyến đề cập với câu thơ: “Nhất cứ liên niên hứng vị cùng”. Một câu thơ nối liền 2 năm mà cái hứng chưa hết.
Vũ Quần Phương cho rằng: Từ khi thơ được viết bằng chữ quốc ngữ, chất ước lệ ít đi. Nhiều nét đời thực được đưa vào. Tập tục ngày Nguyên đán được Nguyễn Bính lưu lại khá đầy đủ qua lời bà mẹ dặn các con; và thông qua sự quan sát của chú bé còn chưa biết chữ:
Sáng ngày mồng một sáng tinh sương / Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường / Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi / Rửa mặt hoa mùi, nước đượm hương / Thầy tôi lấy một tờ hoa tiên / Bút lông dầm mực viết lên trên / Trên những gì gì tôi chẳng biết / Giữa đề năm tháng dưới đề tên.
Khai bút đầu xuân là nét đẹp trong văn hóa người Việt cũng được các thi sĩ lưu lại: Rượu ngon nhất giọng đưa vài chén / Bút mới xô tay thử một hàng.
Đất nước ta ngày đó nghèo, niềm vui của những người dân quê chỉ gói gọn trong những ngày Tết. Bao ước vọng cả một năm trời dồn vào ngày Tết với mong muốn được ăn xôi, chè.
Tết đến thật vui nhưng đùng một tiếng pháo ngắn ngủi, thế là lại hết Tết, người dân lại đầu tắt mặt tối. Cái tâm lý ấy có lẽ là buồn nhất cho những Tết xưa, đúng như thi sĩ Đào Tấn viết: Khi cây nêu hạ xuống / Nghìn nỗi lo theo người.
Nguyễn Bính thì viết: Xong ba ngày Tết mẹ tôi lại / Đầu tắt mặt tối nuôi chồng con.
Gần cả thế kỷ đã đi qua khi những câu thơ này ra đời, tập tục ấy đã xa lắc xa lơ, người trực tiếp mang kỷ niệm về nó chắc chẳng còn mấy nhưng đọc thơ lại ấm dạ, bồi hồi về một thời đất nước.