Chân dung
Một người đàn ông phải bỏ quê hương ra đi ở cái tuổi gần lục tuần do vô số bê bối và ghét bỏ, phải lang thang tìm lấy chỗ trú chân nơi đất khách quê người, để rồi trút hơi thở cuối cùng bởi thứ bệnh dịch chẳng ai ngờ tới, tại một bệnh viện xa lạ, ở một đất nước xa lạ, trong cảnh đơn độc không người thân bên cạnh.
Với người yêu phim của Kim Ki Duk - một trong những gương mặt nổi bật nhất của điện ảnh Hàn Quốc từ thập niên 1990 trở lại đây, câu chuyện nói trên hoàn toàn có thể trở thành cái tứ cho một nhân vật nam chính trong một tác phẩm bạo liệt và giàu tính biểu tượng của ông.
Song, có lẽ chẳng ai ngờ rằng đó lại là cái kết cho cuộc đời của chính Kim Ki Duk - nhà làm phim của những sự mâu thuẫn.
Bị hắt hủi trên chính quê hương
Thuộc nhóm nhà làm phim thế hệ 6X đã làm rạng danh cho điện ảnh Hàn Quốc như Bong Joon-ho, Park Chan Wook, hay Kim Jee Woon, Kim Ki Duk và Hong Sang Soo là hai trong số đạo diễn hiếm hoi của thế hệ này được đào tạo ở nước ngoài, để rồi mang về quê hương một tâm thế và phong vị làm phim hết sức khác biệt.
Nhưng khác với sự mộc mạc và mềm mại của Hong Sang Soo, xuyên suốt cả sự nghiệp, từ những tác phẩm đầu tay như Crocodile (1996), Bad Guy (2001), cho đến kiệt tác khiến người yêu phim cả thế giới phải chú ý như Spring, Summer, Fall, Winter... and Spring (2003), The Bow (2005), và cả khi đứng trên đỉnh cao danh vọng với Pietà (2012), Kim Ki Duk luôn trung thành với dòng phim độc lập kinh phí thấp, cùng nội dung bạo liệt về những góc tăm tối nhất của con người và xã hội Hàn Quốc. Đồng thời, phim của ông chưa bao giờ thiếu vắng những hình ảnh ẩn dụ mang đầy tính biểu tượng về nhân tính.
Các bộ phim của Kim Ki Duk thường xuyên gây ra tranh cãi và không được người Hàn Quốc hưởng ứng. |
Theo dõi các nhân vật trong phim của Kim Ki Duk, đặc biệt là các nhân vật nam xuất thân nghèo khó, gai góc, bị xã hội hiện đại Hàn Quốc đẩy ra ngoài lề, khán giả dường như còn thấy được một phần cuộc đời của chính người đạo diễn đi lên từ công việc chân tay trước khi sang Paris bán tranh dạo, học điện ảnh, rồi quay về nước với góc nhìn điện ảnh đậm chất phương Tây. Phong cách luôn khiến ông trở thành người đứng ngoài những trào lưu chủ đạo của điện ảnh Hàn Quốc.
Khẩu vị công chúng Hàn Quốc vốn thường rất hoạt ngôn và yêu thích những khung hình trau chuốt, đẹp đẽ trên màn ảnh rộng. Do đó, những nhân vật vô cùng kiệm lời nhưng lại thừa thãi bạo lực của Kim Ki Duk như trong Bad Guy hay 3-Iron (2004) có lẽ không thực sự phù hợp.
Việc đa phần nhân vật nữ trong các tác phẩm của đạo diễn sinh năm 1960 đều ở "chiếu dưới", là cái bia hứng chịu sự thịnh nộ, vô tình từ phía nhân vật nam, lại càng khiến Kim Ki Duk trở thành cái gai trong mắt giới phê bình, người xem, và đặc biệt là các nhà hoạt động xã hội, hoạt động vì nữ quyền ở Hàn Quốc.
Time của Kim Ki Duk từng không bán nổi 30.000 vé tại Hàn Quốc. |
Không ngạc nhiên khi các tác phẩm "khó hiểu", "khó xem" của Kim Ki Duk hầu như đều thất bại nặng nề về mặt doanh thu ở thị trường Hàn Quốc, tới mức đạo diễn từng thề sẽ không bao giờ phát hành phim của mình trong nước nếu Time (2006) không bán được 300.000 vé, để rồi ông phải chứng kiến đứa con tinh thần chỉ đón nổi 28.000 lượt khách. Cùng năm, The Host của đạo diễn đồng trang lứa Bong Joon-ho bán hơn 13 triệu vé, lập kỷ lục phòng vé mọi thời đại khi ấy tại xứ kim chi.
Đi tìm vinh quang nơi xứ người
Thất bại trong nước, nhưng ngôn ngữ điện ảnh giàu tính biểu tượng, lại mang tính cá nhân hóa cao độ và có hơi hướm của văn hoá - xã hội Hàn Quốc vốn chưa thực sự được phương Tây biết tới và quan tâm trong buổi đầu thiên niên kỷ mới, lại giúp Kim Ki Duk trở thành “con cưng” của các liên hoan phim quốc tế.
Riêng năm 2004, nhà làm phim họ Kim giành giải Đạo diễn xuất sắc tại Liên hoan phim Berlin và Venice với lần lượt Samaritan Girl và 3-Iron. Cả hai được quay trong thời gian vỏn vẹn hai tuần, dựa trên nguồn tài chính ít ỏi từ việc bán quyền phân phối ở thị trường quốc tế.
Với Pietà, Kim Ki Duk giúp điện ảnh Hàn Quốc lần đầu đứng ngôi cao nhất tại một trong ba liên hoan phim danh giá bậc nhất châu Âu. |
Trớ trêu thay, vinh quang trên đấu trường quốc tế lại chính là điều giới làm phim Hàn Quốc nói riêng, và người dân Hàn Quốc nói chung, thèm muốn. Họ muốn thế giới phải nhận ra rằng Hàn Quốc có nền điện ảnh không hề thua kém bất cứ quốc gia có bề dày văn hóa nào khác.
Bởi vậy, khi Kim Ki Duk làm nên lịch sử cho điện ảnh Hàn khi Pietà trở thành tác phẩm đầu tiên của nước này đứng trên bục cao nhất của một trong ba liên hoan phim hàng đầu châu Âu với tượng Sư tử vàng tại Venice, cả báo giới và người hâm mộ điện ảnh xứ kim chi rơi vào tình thế hết sức khó xử.
Người giúp điện ảnh Hàn Quốc rạng danh trước thế giới rốt cuộc là cái tên không được người Hàn yêu thích, thông qua một tác phẩm chẳng mang chút dấu ấn Hàn Quốc nào theo tiêu chuẩn thông thường của ngành công nghiệp điện ảnh nước này.
Những nốt trầm cuối cuộc đời
Sau Pietà, Kim Ki Duk vẫn không ngơi nghỉ làm phim, khi gần như mỗi năm ông đều cho ra đời một, hai, thậm chí là ba tác phẩm. Nhưng đa phần không để lại nhiều dấu ấn. Ngược lại, một trong số đó - bộ phim Moebius (2013) - lại chính là điểm khởi đầu cho sự sụp đổ không thể gượng dậy của Kim Ki Duk tại quê hương.
Năm 2017, một trong số các nữ diễn viên của bộ phim tố cáo đạo diễn họ Kim tấn công và chèn ép cô trong quá trình làm phim. Vốn chưa từng yêu thích nhà làm phim lập dị, lại liên tiếp được đọc kiểu sự việc như vậy về Kim Ki Duk trong bối cảnh trào lưu nữ quyền #MeToo lên cao, công chúng Hàn Quốc hoàn toàn quay lưng với ông.
Moebius không chỉ gây tranh cãi dữ dội về tính bạo lực, mà còn khiến Kim Ki Duk bị quay lưng hoàn toàn tại quê hương bởi những cáo buộc hậu trường. |
Một cơ hội mở ra khi nhà sản xuất Trung Quốc mở lời mời ông thực hiện dự án bom tấn có kinh phí khoảng 30 triệu USD, dự kiến mời Lưu Diệc Phi và Củng Lợi tham gia. Trong lúc còn đang hào hứng bởi “cứ 10 người trên tàu điện ngầm Trung Quốc lại có một người nhận ra tôi”, kế hoạch ấy đổ bể. Kim Ki Duk không được cấp visa tới làm việc bởi sự căng thẳng chính trị giữa hai quốc gia Đông Á.
Cuối cùng, nhà làm phim phải đột ngột bỏ mình như hàng triệu người khác trên khắp thế giới vì Covid-19, trong lúc đang tìm kiếm nơi ở mới tại nơi lạnh lẽo Latvia. Kim Ki Duk đã vô tình chọn cho mình cái kết có phần gợi nhớ đến số phận của rất nhiều nhân vật trong phim của ông: độc hành ở cuối đường đời bị cắt ngắn đột ngột, khi đang tìm kiếm một hy vọng mới, một hạnh phúc mới.
Với người dân và báo giới Hàn Quốc, có lẽ cái chết đột ngột của Kim Ki Duk không mang lại quá nhiều cảm xúc. Từ lâu đã bị coi là “con cừu đen” lạc loài trong nền điện ảnh Hàn Quốc, vài năm qua, ông còn bị ghi vào “sổ đen” do những tố cáo tấn công tình dục và các tác phẩm bị liệt vào dạng lạc hậu, thụt lùi bởi cách khắc họa nhân vật nữ đi ngược lại với nguyên tắc của chủ nghĩa nữ quyền thời kỳ hậu #MeToo.
Người Hàn cũng chẳng còn cần Kim Ki Duk nữa, bởi họ nay đã có Bong Joon-ho - người khiến cả xứ kim chi ngất ngây với chiến thắng vang dội tại Oscar 2020 cùng Parasite. Đó hẳn là những danh hiệu mà Kim Ki Duk chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ vươn tới.
Ngay cả với người yêu điện ảnh nói chung, Kim Ki Duk cũng là cái tên gây tranh cãi, bởi một phía cho rằng các tác phẩm của ông giàu chất triết lý với những câu chuyện và nhân vật cực kỳ đặc sắc, đáng nhớ, còn phía kia lại cho rằng đó là thứ triết lý nông cạn, với tính biểu tượng nửa vời, các nhân vật bị gò ép quá mức.
Song, dù yêu hay ghét Kim Ki Duk, chẳng ai có thể phủ nhận rằng các bộ phim của ông, dù cực kỳ bạo liệt như The Isle, hay nhẹ nhàng, mềm mại đến bất ngờ như Spring, Summer, Fall, Winter... and Spring, đã để lại trong lòng mỗi người xem một chút gì đó để nhớ, để suy ngẫm về thân phận con người, về cách thức người với người nên đối xử với nhau, để trong hoàn cảnh tăm tối nhất mỗi cá nhân không cảm thấy cô độc.
Xin tạm biệt ông, Kim Ki Duk.