Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Hữu Độ vừa ký quyết định 712/QĐ-BGDĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Hàn và Tiếng Đức - Ngoại ngữ 1, hệ 10 năm thí điểm.
Trong phần 'Đặc điểm môn học', quyết định viết: "Môn Tiếng Hàn - Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc". Điều này gây tranh cãi khi khiến nhiều người hiểu học sinh bắt buộc phải học môn Tiếng Hàn.
Thông tin thêm về quyết định, trao đổi với Zing sáng 4/3, ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Giáo dục Trung học, Bộ GD&ĐT, cho biết Tiếng Hàn và Tiếng Đức không phải môn bắt buộc. Hai môn này được dạy theo hệ 10 năm thí điểm.
Theo Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Hàn và Tiếng Đức - Ngoại ngữ 1, thời lượng chương trình gồm 1.155 tiết (mỗi tiết 45 phút), chia thành 3 giai đoạn. Trong đó, giai đoạn 1 (tiểu học) gồm 420 tiết, giai đoạn 2 (THCS) 420 tiết, giai đoạn 3 (THPT), 315 tiết.
Tiếng Hàn, Tiếng Đức được đưa vào dạy cho học sinh từ lớp 3 đến lớp 12, hệ 10 năm thí điểm. Ảnh minh họa: Tùng Tin. |
Nội dung cơ bản của chương trình Tiếng Hàn bao gồm các chủ điểm, chủ đề, kiến thức ngôn ngữ, được lựa chọn phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh và được tích hợp vào quá trình rèn luyện, phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cơ bản.
Môn Tiếng Hàn giúp học sinh đạt yêu cầu quy định trong Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Cụ thể, hết lớp 6, học sinh đạt bậc 1, kết thúc THCS (hết lớp 9) đạt bậc 2, kết thúc THPT (lớp 12) đạt bậc 3.
Trong khi đó, mục tiêu cơ bản của Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Đức là giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp thông qua rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và các kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp).
Các kỹ năng giao tiếp và kiến thức ngôn ngữ được xây dựng trên cơ sở các đơn vị năng lực giao tiếp cụ thể theo các chủ điểm và chủ đề phù hợp với nhu cầu và khả năng của học sinh phổ thông nhằm giúp học sinh đạt được các yêu cầu quy định trong Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Cụ thể, học sinh kết thúc Tiểu học (lớp 3, 4, 5) đạt bậc 1 (tương đương A1 theo Khung tham chiếu chung châu Âu về ngôn ngữ/ CEFR), học sinh kết thúc THCS (lớp 6, 7, 8, 9) đạt bậc 2 (tương đương A2 theo CEFR), học sinh kết thúc THPT (lớp 10, 11, 12) đạt bậc 3 (tương đương B1 theo CEFR).
Về nội dung chương trình, ở cấp tiểu học (từ lớp 3 đến lớp 5), học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cơ bản thông qua 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; trong đó chú trọng nhiều hơn đến 2 kỹ năng nghe và nói.
Ở cấp THCS, học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, đồng thời phát triển năng lực tư duy và nâng cao sự hiểu biết về văn hóa, xã hội Hàn Quốc, Đức và các quốc gia trên thế giới cũng như hiểu biết sâu hơn về văn hóa, xã hội dân tộc mình.
Ở cấp THPT, học sinh phát triển năng lực giao tiếp dựa trên nền tảng chương trình đã được học ở các cấp dưới, trang bị cho học sinh kiến thức và kỹ năng để học tập suốt đời, phát triển năng lực làm việc trong tương lai.
Theo Bộ GD&ĐT, "ngoại ngữ thứ nhất" là ngoại ngữ bắt buộc. Quy định của Chương trình giáo dục phổ thông ban hành năm 2006 cho phép học sinh được lựa chọn 1 trong 4 ngoại ngữ: Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung làm ngoại ngữ thứ nhất.
Năm 2011, Bộ GD&ĐT bổ sung quy định về việc Tiếng Nhật được dạy và học trong trường phổ thông như ngoại ngữ thứ nhất hoặc ngoại ngữ thứ hai tùy theo nhu cầu và lựa chọn của các địa phương và trường học.
"Ngoại ngữ thứ hai" là ngoại ngữ tự chọn, không bắt buộc, tùy theo nhu cầu của người học và điều kiện dạy học, các trường phổ thông có thể bố trí dạy học đáp ứng nhu cầu của học sinh.