Giáo dục vốn là một trong những mảnh đất mà tốc độ đột phá thuộc hạng chậm so với rất nhiều ngành nghề. Vì vậy, trong một thế giới vừa đi nhanh vừa nhiều biến động, nó đòi hỏi những người làm giáo dục, dù ở bậc phổ thông hay đại học, cao học, cần tăng tốc, đổi mới và bứt phá chính bản thân chúng ta, trước khi nói đến việc có thể làm gì cho sinh viên.
Câu hỏi đặt ra là trong cách đã và đang giáo dục, đào tạo sinh viên, đâu là những chỗ mà sinh viên đang “chết”? Bởi vì, phần lớn sinh viên khi bước ra trường, đối diện đổi thay chóng mặt của thế giới, rất xa rời và hụt hơi trước thực tế. Nhiều bạn thấy một "khoảng trống to đùng" từ cánh cửa tốt nghiệp và cánh cửa vào đời.
Năng lực làm việc tập thể, thương lượng, quản lý khách hàng đối tác là điểm yếu của nhiều sinh viên mới ra trường. Ảnh minh họa: Getty. |
Những điểm mù chí mạng
Khi thế giới đang “chuyển kênh” liên tục như được lên dây cót, các công ty cũng đứng trước nhiều thử thách phải đối mặt: Tốc độ phát triển công nghệ, lực lượng lao động bất ổn, khoảng trống kỹ năng của nhân công, mức độ tiếp cận và sử dụng tài năng toàn cầu, tuổi thọ trung bình kéo dài, mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn.
Những xu hướng này đặt ra một bài toán khó và áp lực chuyển mình lên trên giáo dục đại học và phổ thông. Làm sao để chuẩn bị cho sinh viên bước vào đời vững vàng, bản lĩnh?
Giờ đây, mối quan ngại ít khi là kiến thức hoặc kỹ năng chuyên ngành. Lỗ hổng thường nằm ở những năng lực nền tảng và kỹ năng mềm - chìa khóa được cho là động cơ thúc đẩy năng lực học tập trọn đời của người học.
Joe Fuller và Bill Kerr, hai giáo sư của trường Kinh doanh Harvard, phối hợp thực hiện dự án nghiên cứu dài hơi Managing the Future of Work (Quản lý tương lai của việc làm).
Dự án nghiên cứu của Joe và Bill đã thống kê những kỹ năng được cho là quan trọng nhất (xếp thứ tự từ cao xuống) đang bị thiếu hụt trầm trọng trong lực lượng sinh viên ra trường, kể cả từ các trường đại học hàng đầu:
- Giao tiếp qua văn viết và văn nói.
- Năng lực làm việc tập thể, thương lượng, quản lý khách hàng đối tác.
- Tư duy đa chiều: Sáng tạo, phản biện, năng lực tự học.
- Tác phong chuyên nghiệp: Etiquette (nghi thức, nghi lễ, phép xã giao), quản lý hình ảnh và phong cách cá nhân.
- Năng lực lãnh đạo: Giám sát, cố vấn (mentoring), quản lý dự án.
- Tính cách: Đạo đức, độc lập, độ tin cậy.
Không những vậy, nhận thức của sinh viên ra trường giờ đây vẫn tồn tại nhiều vấn đề. Một mặt, sinh viên đòi hỏi phải có mức lương cao và nhiều điều kiện như thời gian làm việc linh hoạt, làm việc tại nhà, lương thưởng tăng nhanh.
Thế nhưng, mặt khác, hiệu suất làm việc của họ chưa tốt, mức độ gắn kết với công việc kém hơn, tỷ lệ nhảy việc cao. Thậm chí, họ không mấy dấn thân vào công việc và không khai thác bản thân để phát triển tốt nhất có thể.
Trong nghiên cứu của Tổ chức nghiên cứu kinh tế NBER, hai học giả Stacy Berg Dale và Alan Krueger kết luận: “Những sinh viên từ các trường đại học hàng đầu không kiếm được nhiều tiền hơn những sinh viên bị các trường lớn từ chối và theo học ở những trường xếp hạng thấp hơn nhiều”.
Một cuộc khảo sát của Tổ chức Gallup cho thấy 11% các nhà lãnh đạo doanh nghiệp hàng đầu thế giới cho rằng đại học trang bị đủ để sinh viên gia nhập vào thị trường việc làm. 89% các nhà lãnh đạo doanh nghiệp còn lại lắc đầu ngao ngán.
Đáng báo động hơn, khoảng một nửa sinh viên tốt nghiệp đại học ở Mỹ thất nghiệp, hoặc làm những công việc mà chỉ cần học sinh tốt nghiệp cấp ba là có thể "xơi" được ngon lành.
Ở nhiều phương diện năng lực, thái độ và tính cách, những sinh viên tốt nghiệp đại học không khá hơn so với những người đi làm chỉ có bằng phổ thông hoặc cao đẳng, học nghề.
Thế nhưng, 94% người Mỹ trưởng thành vẫn tin tưởng tuyệt đối vào giá trị cao quý của tấm bằng đại học. Họ gần như mù tịt rằng sở hữu một tấm bằng đại học chưa chắc đã nhẹ nhàng mở được cánh cửa nặng trịch dẫn vào đời và cũng chưa chắc đã trải nhựa mịn màng cho đường đến thành công. Có vẻ như niềm tin của họ vẫn chưa bắt kịp được xu thế vận hành và tốc độ thay đổi của thế giới.
TS Nguyễn Chí Hiếu (phải) là thủ khoa MBA tại ĐH Oxford, tốt nghiệp thủ khoa ngành Kinh tế và Khoa học Chính trị tại Học viện Kinh tế và Chính trị London (LSE). Ảnh: NVCC. |
"Liều thuốc" là gì?
Cả một bộ máy chính sách và các viện nghiên cứu, những tổ chức, cá nhân đóng vai trò định hướng tương lai cho hệ thống giáo dục Mỹ vẫn hì hục chạy đua nghiên cứu để tìm câu trả lời cho những câu hỏi: Giáo dục khai phóng sẽ đi về đâu? Khai phóng học sinh, sinh viên như thế nào để họ đủ sức lực và tâm thế bước vào đời?
Trong những “liều thuốc” mà họ đang tìm kiếm, dù ở nơi nào, họ cũng đặc biệt thảo luận với tôi về ba “gia vị”: Năng lực học trọn đời (life-long learning competencies), thói quen tư duy (habits of mind), kỹ năng nền tảng (foundational skills).
Xứ người ta thì đang miệt mài, nghiêm túc nghiên cứu để có khi còn khai phóng cả “giáo dục khai phóng”. Mọi thay đổi, nếu không gắn với nền tảng rõ ràng, rất dễ biến thành cách làm “vơ đũa cả nắm” hoặc hớt váng bỏ chất.
Làm giáo dục theo kiểu tiện lợi mì ăn liền, chạy theo xu hướng thị trường hoặc “cứng đầu” bám rễ những điều cũ kỹ, sẽ rất dễ lãng phí thời gian và nguồn lực. Nhưng phí phạm lớn nhất chính là thời gian, cơ hội và đôi khi là cả cuộc đời của lũ trẻ.
Làm giáo dục theo kiểu tiện lợi mì ăn liền, chạy theo xu hướng thị trường hoặc “cứng đầu” bám rễ những điều cũ kỹ, sẽ rất dễ lãng phí thời gian và nguồn lực.
TS Nguyễn Chí Hiếu
Từ thuở ban đầu của giáo dục khai phóng, những người đặt nền tảng cho nó đã nêu tuyên ngôn: Giáo dục khai phóng nên làm được bốn điều cho học trò: Cởi trói, kích hoạt, phối hợp, đột phá.
Cởi trói tức là không phải đào tạo học sinh vào một nghề nhất định trước khi chúng biết mình là ai và muốn đạt được thành tựu gì.
Kích hoạt có nghĩa là không gò người học vào việc “học gạo”, học rập khuôn, là giúp người học sáng tạo và đột phá để kích hoạt thế giới của bản thân. Còn “giáo dục gạo”, rập khuôn chỉ như là những xiềng xích, gông cùm của sự bắt chước. Nếu làm không cẩn thận, nó dễ ám ảnh những người làm giáo dục đến mờ mắt.
Phối hợp tức là giúp người học bắt tay với con người đến từ nhiều hoàn cảnh và có cá tính khác nhau, cùng hành động tạo ra một điều gì đó tích cực. Giáo dục khai phóng cần tạo cho người học thói quen nhìn vượt ra khỏi bản thân, đặt mình trong vị trí của người khác để nhìn đời sâu sắc hơn và tỏ tường hơn. Khi ấy, người học sẽ không ngừng mở rộng tri thức và ít có xu hướng tự phụ hơn.
Đột phá/kiến tạo chính là kích hoạt những nghi ngờ, thách thức những cách nghĩ hiện hành, phổ biến, truyền thống, mặc định. Từ những ngờ vực và thách thức đó mới dẫn đến sự ra đời của những sáng tạo và đột phá trong tư tưởng, hành động và thành phẩm.
Giáo dục không phải đơn giản là để người học ngay sau khi ra trường sẽ có được công việc để sinh sống, mà còn là dạy cách tư duy, cách nghĩ và cách học để mỗi người có thêm cơ hội chạm gần đến với đam mê đích thực của bản thân.
Đam mê đích thực có ý nghĩa vượt xa một tấm bằng với tên trường danh giá. Nó chính là thay đổi và đột phá bản thân để đi con đường dài, trong một thế giới mà có lẽ mai kia, những tên trường không còn là nỗi ám ảnh, tấm bằng không hẳn là giấy chứng nhận chất lượng về một con người.
Giáo dục khai phóng chưa bao giờ và không nên được gói gọn trong những tên trường hoành tráng, mà nó là cách nghĩ và cách làm giáo dục bền vững, chạm đến chiều sâu.
TS Nguyễn Chí Hiếu, 37 tuổi, quê Bình Định, lấy bằng tiến sĩ từ Đại học Stanford (Mỹ). Ông từng đạt danh hiệu thủ khoa MBA Đại học Oxford (Anh), tốt nghiệp thủ khoa ngành Kinh tế và Khoa học Chính trị tại Học viện Kinh tế và Chính trị London (LSE).