Những chia sẻ hữu ích dưới đây từ các chuyên gia y tế đầu ngành sẽ giúp bạn có cái nhìn cận cảnh về vấn đề này.
Cơ chế của đề kháng kháng sinh
Theo PGS. TS. BS Trần Văn Ngọc - Chủ tịch Hội Hô hấp TP.HCM, cơ chế của đề kháng kháng sinh có thể hiểu như sau: khi người bệnh sử dụng kháng sinh, thuốc sẽ tác động trên một hoặc nhiều bộ phận của tế bào vi khuẩn và tiêu diệt gần như tất cả vi khuẩn, trừ một số loại có khả năng kháng thuốc.
Vi khuẩn đề kháng kháng sinh bằng cách thay đổi đặc tính (cấu trúc hay chuyển hoá…) các bộ phận của tế bào vi khuẩn làm cho kháng sinh không còn tác dụng, gây ra kháng thuốc. Vi khuẩn kháng thuốc này tiếp tục phát triển, nhân lên, phát tán và lây nhiễm sang người khác khiến kháng sinh dần mất tác dụng, gây ra tình trạng đề kháng thuốc.
Sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý khiến tỷ lệ kháng thuốc ngày càng tăng cao. |
Độ nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh
PGS. TS. DS Nguyễn Hoàng Anh - Phó giám đốc phụ trách Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và theo dõi ADR, Giảng viên bộ môn Dược lý, Đại học Dược Hà Nội chia sẻ, những kháng sinh đầu tay ưu tiên được lựa chọn cho điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng có 3 loại chính là: penicilin, cephalosporin và macrolid.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của nhiều công trình đã công bố tại Việt Nam và thế giới cho thấy độ nhạy cảm của vi khuẩn đối với các kháng sinh này có xu hướng giảm dần, thậm chí mức độ đề kháng đang ở mức cao.
Lựa chọn kháng sinh phù hợp
Theo PGS. TS. BS Trần Văn Ngọc, để kiểm soát và ngăn chặn đề kháng kháng sinh cần có sự thống nhất, hợp tác giữa bệnh nhân và nhân viên y tế trong việc lựa chọn, sử dụng kháng sinh, quan trọng nhất là khâu kê toa. Có 8 nguyên tắc kê toa dành cho bác sĩ, trong đó 3 nguyên tắc then chốt là chỉ kê toa kháng sinh trong điều trị nhiễm khuẩn, tối ưu hóa dược lâm sàng khi kê toa và khuyến khích bệnh nhân tuân thủ điều trị.
Sử dụng kháng sinh hợp lý sẽ góp phần ngăn chặn đề kháng kháng sinh. |
Cụ thể, theo PGS. TS. DS Nguyễn Hoàng Anh, bác sĩ cần dựa trên 3 căn cứ chính là vi khuẩn gây bệnh, kháng sinh và người bệnh. Đầu tiên cần biết về vi khuẩn gây bệnh, vì sử dụng kháng sinh là để tấn công vi khuẩn. Tuy không phải trường hợp nào cũng có được kết quả vi sinh để trên cơ sở đó lựa chọn kháng sinh phù hợp, nhưng bác sĩ có thể căn cứ vào vị trí nhiễm khuẩn, vi khuẩn thường gặp tại vị trí đó và tình hình đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đó đối với kháng sinh định lựa chọn.
Thứ hai là phải biết về kháng sinh từ phổ tác dụng, dược động học, dược lực học, khả năng thấm tới vị trí nhiễm khuẩn, tác dụng không mong muốn và giá thành.
Yếu tố thứ ba là người bệnh. Cần nắm rõ có phải là đối tượng đặc biệt như trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, cho con bú, bệnh nhân bị suy giảm chức năng gan thận hay những người có cơ địa dị ứng. Căn cứ vào nhiễm khuẩn của người bệnh, tiên lượng để từ đó lựa chọn kháng sinh.
PGS. TS. BS Sibel Ascioglu, bác sĩ y khoa, Hiệp hội châu Âu về Vi sinh Lâm sàng và các bệnh nhiễm khuẩn đồng thời là cố vấn y khoa của GSK khu vực châu Á TBD chia sẻ, GSK là một trong những công ty dược phẩm dựa trên nghiên cứu hàng đầu thế giới nên chúng tôi luôn chủ động tìm kiếm giải pháp nhằm ngăn chặn đề kháng kháng sinh.
Bên cạnh việc phát triển vaccine mới nhằm bảo vệ cộng đồng trước các tác nhân gây bệnh và giảm bớt sự lệ thuộc vào kháng sinh, GSK đã triển khai Khảo sát Đề kháng kháng sinh (SOAR) tại nhiều quốc gia trên thế giới nhằm đo lường độ nhạy cảm của các tác nhân gây nhiễm khuẩn đường hô hấp mắc phải trong cộng đồng.
Thông qua SOAR, chúng ta có thể đánh giá về hiệu quả của kháng sinh trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp, từ đó phát triển phác đồ điều trị mới, đồng thời khuyến khích chỉ định theo hướng dẫn điều trị/sử dụng kháng sinh hợp lý trong hệ thống chăm sóc sức khỏe và cộng đồng.
Chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng do Hội Hô hấp TP.HCM phối hợp cùng văn phòng đại diện GlaxoSmithKline Pte Ltd tại TP.HCM thực hiện, nhằm nâng cao tầm quan trọng sử dụng kháng sinh hợp lý.