Nguyễn Trật hiện chưa rõ năm sinh, năm mất, ước chừng ông sống vào thời Hậu Lê, nửa sau thế kỉ XVI, người làng Nguyệt Viên, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
Tương truyền, sinh thời ông là người có thể chất tráng kiện, lại hiền lành siêng năng nên được nhiều người mến mộ. Với mong muốn lập thân bằng con đường khoa cử, ông cũng tìm đến với con chữ thánh hiền những mong ghi dấu công danh. Thế nhưng, vì quá tối dạ, học đến đâu quên đến đó nên ông đành từ bỏ sách vở, khoa thi.
Cảnh thi cử thời phong kiến. Ảnh: Tư liệu. |
Một thầy Địa lý giỏi có tiếng trong làng vì yêu mến tính tình hiền lành, đức độ của Nguyễn Trật mà tặng cho ông một miếng đất phát tiến sĩ.
Vì tin thầy Địa lý, Nguyễn Trạch lại lao đầu vào dùi mài kinh sử với hi vọng sẽ đỗ đạt. Ông tham dự kì thi Hương cùng với đồng môn khi tuổi đời đã ở 40. Trước kì thi, thầy giáo đã nhờ một số học trò thân tín khi vào trường thi “gà” bài cho Nguyễn Trạch.
Vào thời Lê Trung Hưng, thế nước loạn lạc, thi cử lỏng lẻo vì thế Nguyễn Trật khi được bạn bè giúp đỡ, ông đã thi đỗ kì thi Hương, thi Hội (trong kì thi Hội ông đỗ trường Nhất, trường Nhì và trường Ba) và chuẩn bị tham dự thi trường Tư.
Oái oăm thay, kì thi này các sĩ tử thân cận với ông đều rớt hết nên cũng chẳng còn ai giúp ông.
Sách “Tang thương ngẫu lục” viết:
"Đến trường Tư, trước đó mấy ngày, bạn cùng trọ một nhà đều lo đi sắm sửa thêm các thứ cần thiết để vào trường thi, Nguyễn Trật ở nhà nằm ngủ ngày, trong giấc chiêm bao, thấy có một vị thần đến, kêu to lên rằng: Khương khương!
Tỉnh dậy ông nghĩ:
- Hai chữ "khương" cùng âm (một chữ là họ hoặc tên người, một chữ là gừng), ta cứ thử mang theo gừng xem sao.
Hôm vào trường Tư, ông mang theo gừng thật. Thế rồi chiều tối hôm ấy, ở lều bên cạnh có một thí sinh vật vã ôm bụng kêu đau, hỏi ra mới biết đó chính là viên nho sinh quê ở làng Bột Thái. Ông đem nước gừng đổ cho uống. Lát sau, người ấy lấy quyển thi của mình ra và nói:
- Đây là bài thi rất đắc ý của tôi nhưng chưa đề tên vào, nay xin tặng ông để đền ơn. Xin ông cõng tôi ra khỏi trường, tôi dầu có chết cũng chẳng ân hận gì nữa.
Ông vâng lời, cõng viên nho sinh ra khỏi trường. Sau, viên nho sinh này lại phát bệnh mà mất.
Nhận bài từ thí sinh này, ông chỉ việc điền thêm phần kết cho xong rồi ghi tên mình và nộp quyển.
Giám khảo chấm thi nhận thấy, quyển văn phần đầu viết hay nhưng phần kết thì chẳng ăn nhập gì nên lấy ông đỗ hạng 7 và ghi tên cho tham dự kỳ thi Đình.
Vào đến kỳ thi Đình, vì trong đầu không còn chữ nên ông phải bỏ giấy trắng. Triều đình cho rằng ông ngông ngạo nên dự tính sẽ phạt bằng cách xóa tên ông khỏi các kì thi.
Trong khi triều đình dự định xóa tên ông khỏi tất cả kỳ thi, xử phạt thì đột nhiên chúa Trịnh Tùng ốm nặng qua đời. Trịnh Tráng lên thay nhưng gặp phải sự chống đối quyết liệt của anh trai là Trịnh Xuân, Trịnh Tráng phải bỏ chạy về Hải Dương rồi cùng vua Lê về Thanh Hóa.
Trong lúc hỗn loạn, Nguyễn Trật có công hộ giá nhà vua Lê và chúa Trịnh. Nhờ có công, cuối cùng ông không còn bị triều đình trừng phạt nữa, lại cho đỗ Tiến sĩ.
Vậy là từ thân phận của một nho sinh phạm trường quy, "phạm tội" kiêu ngạo với triều đình, Nguyễn Trật may mắn thoát nạn, được chấm đỗ Tiến sĩ, tên tuổi được lưu danh trên bảng vàng danh giá.
Sau này, Nguyễn Trật làm quan đến chức Công khoa Đô Cấp sự trung. Dù ông không có văn hay, nhưng tính tình hiền lành thương yêu dân chúng, làm quan rất thanh liêm, người dân yêu mến gọi ông là quan Nghè Nguyệt Viên.