Bệnh đái tháo đường ngày càng tăng nhanh trên phạm vi toàn cầu và tập trung vào độ tuổi lao động, trở thành gánh nặng cho xã hội. Theo công bố Atlas ấn bản lần thứ 9 của Liên đoàn Đái tháo đường Thế giới (IDF), ước tính có 463 triệu người trong độ tuổi 20-79 chung sống với căn bệnh này, tại Việt Nam là hơn 3,7 triệu người.
Trước thực trạng đáng báo động này, việc tìm ra loại thuốc giúp bệnh nhân kiểm soát đường huyết tối ưu, giảm nguy cơ hạ đường huyết, tăng cân trở nên bức thiết.
Chiết xuất thành công insulin từ động vậtTrước năm 1921, việc điều trị cho bệnh nhân đái tháo đường chủ yếu tập trung vào chế độ ăn kiêng và nhịn đói kéo dài. Hầu hết bệnh nhân type 1 tử vong sau 2 năm được chẩn đoán. Năm 1921, Frederick Banting cùng Charles Best đã chiết xuất insulin từ tuyến tuỵ của chó và phát triển một dạng tinh khiết hơn để hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Cột mốc này đặt nền tảng cho việc nghiên cứu, tối ưu hiệu quả của insulin sau này. |
Insulin NPH ra đờiĐến năm 1923, Frederick Grant Banting và John James Rickard Macleod được trao giải Nobel Sinh lý học - Y khoa cho việc tìm ra insulin. Loại thuốc này trở nên phổ biến và tiếp tục được các nhà khoa học phát triển. Đến năm 1946, nền y khoa ghi nhận bước tiến mới khi insulin NPH ra đời, với tác dụng trung bình, giúp giảm số lần tiêm trong ngày. Loại thuốc này nhanh chóng nằm trong danh sách thiết yếu của Tổ chức Y tế thế giới và quan trọng nhất cần có trong hệ thống y tế cơ bản. |
Sản xuất thành công insulin người tái tổ hợpInsulin ở bò hay lợn có sự khác biệt trong thành phần amino acid so với người, gây ra một số tác dụng phụ không mong muốn khi dùng loại thuốc có nguồn gốc động vật. Ngoài ra, quá trình sản xuất và làm tinh khiết insulin thời kỳ này gặp nhiều khó khăn. Năm 1976, Hoechst AG sản xuất thành công insulin người tái tổ hợp và đưa vào thương mại hóa năm 1983. Việc ứng dụng công nghệ sinh học vào dược phẩm thành công giúp hạn chế tác dụng phụ, mở ra chặng đường mới cho hành trình tối ưu công dụng insulin. |
Phê duyệt insulin analog đầu tiênNăm 1996, các nhà khoa học đưa y khoa lên tầm cao mới khi insulin analog đầu tiên được phê duyệt. So với loại nội sinh của người, phân tử này được điều chỉnh ở một vài acid amin để thay đổi hấp thu - phân bố - chuyển hóa - thải trừ theo yêu cầu đa dạng. Nhờ đó, bác sĩ có thể sử dụng insulin analog phù hợp tình trạng từng bệnh nhân, tăng khả năng thành công trong điều trị. |
Insulin nền analog tác dụng kéo dài ra đờiNăm 2000, insulin analog tác dụng kéo dài đầu tiên được phát triển với tên gọi insulin glargine. Nhờ tác dụng không có đỉnh và kéo dài đến 24 giờ, bệnh nhân đái tháo đường chỉ cần tiêm 1 lần/ngày để kiểm soát đường huyết đói. Năm 2015, insulin nền analog thế hệ 2 ra đời, với thời gian tác dụng kéo dài và nguy cơ hạ đường huyết thấp hơn. |
Phê duyệt bút tiêm insulinNăm 2017, FDA phê duyệt bút tiêm insulin thông minh. Bút lưu trữ thông tin liều lượng được dùng, thời gian tiêm… và chuyển dữ liệu đến ứng dụng di động qua Bluetooth. Người bệnh có thể theo dõi tình trạng bệnh sát sao, hỗ trợ quá trình điều trị, đồng thời thao tác tiêm với bút này cũng dễ dàng hơn. |
Đóng góp của insulin với nền y họcTừ lúc tìm ra insulin đến nay, nhiều bệnh nhân đái tháo đường type 1 và 2 trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã kiểm soát được bệnh đái tháo đường. Sự phát triển của insulin không chỉ giúp bệnh nhân kiểm soát các biến chứng và cải thiện cuộc sống, mà còn giảm gánh nặng lên hệ thống y tế quốc gia. |
GS.BS. Vivian A. Fonseca - Trưởng phân môn Nội tiết tại Trung tâm Y khoa ĐH Tulane (Mỹ), Chủ tịch Y khoa và Khoa học Hiệp hội Đái tháo đường Mỹ 2012 - cho biết: “Insulin nền đóng vai trò vô cùng quan trọng trong điều trị đái tháo đường típ 2, bởi cơ chế sinh bệnh chủ yếu là sự thiếu hụt chức năng của tế bào beta. Insulin nền có thể sử dụng đơn lẻ, phối hợp các mũi theo bữa ăn hoặc cùng đồng vận thụ thể GLP-1 trong một mũi tiêm”. |
“Việc điều trị bệnh đái tháo đường với insulin rất nhiều cải tiến đáng kể. Đầu tiên, sự thay đổi từ insulin chiết xuất động vật với nhiều tạp chất và nồng độ thấp đến insulin analog đáp ứng nhu cầu điều trị đa dạng. Tiếp theo, cải tiến về dụng cụ giúp việc tiêm trở nên dễ dàng hơn, từ bơm tiêm phức tạp đến bút insulin tiện lợi và chính xác. Ngoài ra, dụng cụ đo đường huyết tĩnh mạch được phát triển lên máy thử đường huyết mao mạch cá nhân giúp theo dõi bệnh nhân linh hoạt hơn”, PGS.TS.BS Nguyễn Thy Khuê chia sẻ tại hội thảo khoa học Khởi đầu thập kỷ mới với liệu pháp insulin nền do Tổng Hội Y học Việt Nam, Liên chi hội Đái tháo đường và Nội tiết TP.HCM, Công ty TNHH Sanofi - Aventis Việt Nam (Sanofi) phối hợp tổ chức. |
Khởi đầu thập kỷ mới với liệu pháp insulin nềnHội thảo Khởi đầu thập kỷ mới với liệu pháp insulin nền thu hút gần 800 bác sĩ chuyên khoa nội tiết, nội khoa và đa khoa… trên khắp Việt Nam. Đặc biệt, hơn 500 chuyên gia y tế từ Indonesia cũng tham dự trực tuyến. Tại hội thảo, vai trò của insulin, tình hình kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 châu Á, việc cân bằng hiệu quả và nguy cơ hạ đường huyết được bàn luận sôi nổi. |
“Đái tháo đường ảnh hưởng đến cuộc sống hàng triệu bệnh nhân tại Việt Nam và đặt gánh nặng không nhỏ lên hệ thống y tế. Trong gần một thế kỷ qua, Sanofi không ngừng nỗ lực nghiên cứu, phát triển sản phẩm chất lượng cao, mang đến giải pháp điều trị tiên tiến và hiệu quả cho bệnh nhân đái tháo đường, đồng hành cùng chuyên gia y tế trong việc tối ưu hóa điều trị. Đó tiếp tục là mục tiêu lâu dài của Sanofi thời gian tới”, ông Emin Turan - Tổng giám đốc Sanofi Đông Dương, Giám đốc Điều hành nhóm Thuốc tổng quát tại Việt Nam - chia sẻ. |
Một số chương trình hợp tác của Sanofi Việt Nam hỗ trợ tối ưu điều trị đái tháo đường gồm: Dự án iSTEP-D giai đoạn 2014-2018 thu hút hơn 2.000 bác sĩ đến từ 270 bệnh viện trên cả nước tham gia khóa đào tạo quốc tế chuyên sâu. Dự án iSTEP-D Plus (đào tạo tại chỗ) và iSTEP-D Plus Online (đào tạo trực tuyến) giai đoạn 2019-2021, hợp tác với Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam (VADE) cùng 6 trung tâm đào tạo hàng đầu. Chương trình hỗ trợ bệnh nhân iCARE tại các bệnh viện giai đoạn 2019-2020 hỗ trợ bệnh nhân chủ động quản lý bệnh và nâng cao hiệu quả điều trị. |
Bình luận