Nghe thật có vẻ khó tin, nhưng Kolkiewicz chỉ là một trong nhiều người đã "sống lại sau khi chết".
Năm 2001, một người đàn ông 66 tuổi đã bị ngừng tim trong ca mổ phình động mạch chủ bụng. Sau 17 phút nỗ lực hồi sức - kết hợp CPR, khử rung tim, và thuốc - các dấu hiệu sinh tồn không trở lại, và bệnh nhân được thông báo là đã tử vong. Mười phút sau, bác sĩ phẫu thuật của bệnh nhân cảm thấy có mạch đập. Bệnh nhân vẫn còn sống. Ca mổ được tiếp tục với kết quả thành công.
Vào năm 2014, một cụ ông 78 tuổi sống ở bang Mississippi bị tuyên bố là đã chết sau khi điều dưỡng ở nhà dưỡng lão thấy ông không còn mạch. Ngày hôm sau, ông tỉnh dậy trong túi đựng xác ở nhà xác.
Đây đúng là những câu chuyện khó tin có vẻ phù hợp hơn với những bộ phim kinh dị, nhưng có một cái tên trong đời thực cho những trường hợp như vậy: hội chứng Lazarus.
Đã có nhiều trường hợp các dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân trở lại sau khi bị tuyên bố là đã chết. |
Hội chứng Lazarus là gì?
Hiện tượng Lazarus, hay hội chứng Lazarus, được định nghĩa là sự phục hồi tuần hoàn muộn tự phát (ROSC) sau khi ngừng hồi sức tích cực. Nói cách khác, bệnh nhân được tuyên bố là đã chết sau khi ngừng tim lại thấy hoạt động tim khôi phục trở lại.
Hội chứng được đặt theo tên của Lazarus vùng Bethany, người mà theo Kinh Tân Ước đã được Chúa Jesus hồi sinh 4 ngày sau khi qua đời.
Kể từ năm 1982, khi hiện tượng Lazarus lần đầu tiên được mô tả trong y văn, đã có ít nhất 38 trường hợp được báo cáo.
Theo báo cáo năm 2007 của Vedamurthy Adhiyaman và cộng sự, trong khoảng 82% số trường hợp hội chứng Lazarus cho đến nay, ROSC xảy ra trong vòng 10 phút sau khi ngừng hồi sức, và khoảng 45% bệnh nhân có hồi phục thần kinh tốt.
Tuy nhiên, trong khi số trường hợp báo cáo ít có thể làm nổi bật sự hiếm hoi của hội chứng Lazarus, các nhà khoa học tin rằng hiện tượng này phổ biến hơn nhiều so với ghi nhận trong các nghiên cứu.
Điều gì có thể gây hội chứng Lazarus?
Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng hiện tượng Lazarus có thể là do áp lực hình thành trong lồng ngực do CPR gây ra. Khi ngừng CPR, áp lực này có thể giải phóng từ từ và kích hoạt trái tim trở lại hoạt động.
Một giả thuyết khác là hoạt động chậm của thuốc được sử dụng trong hồi sức cấp cứu, như adrenaline.Có thể các thuốc tiêm vào tĩnh mạch ngoại vi không được vận chuyển vào trong cơ thể do suy giảm hồi lưu tĩnh mạch, và khi hồi lưu tĩnh mạch được cải thiện sau khi ngừng căng phồng phổi động học, phân phối thuốc có thể góp phần hồi phục tuần hoàn.
Tăng kali huyết là một cách giải thích khác cho hiện tượng Lazarus, vì nó liên quan đến ROSC chậm. Vì có quá ít trường hợp hội chứng Lazarus được báo cáo, nên rất khó tìm hiểu cơ chế chính xác đằng sau hiện tượng này.
Nhưng có lẽ điều gì đưa người bệnh nhân trở lại cuộc sống không phải là thứ chúng ta nên quan tâm; vì có lẽ họ chưa bao giờ chết.
Nhầm lẫn giữa sống với chết
Benjamin Franklin đã từng nói: "Trên đời này không có gì là chắc chắn, trừ cái chết và thuế". Tuy nhiên, trên lâm sàng, tuyên bố về cái chết không chắc chắn như chúng ta vẫn nghĩ.
Năm 2014, có báo cáo về một phụ nữ 80 tuổi đã bị "đông lạnh khi còn sống” trong nhà xác của bệnh viện sau khi bị thông báo nhầm là đã chết.
Cũng trong năm đó, một bệnh viện ở New York đã bị chỉ trích gay gắt sau khi tuyên bố không đúng về một người phụ nữ là đã chết não sau khi dùng thuốc quá liều. Người phụ nữ tỉnh dậy ngay sau khi được đưa đến phòng mổ để lấy tạng.
Các trường hợp như vậy làm nảy sinh câu hỏi, làm sao mà người ta lại có thể tuyên bố nhầm một người là đã chết?
Có hai loại chết: chết lâm sàng và chết sinh học. Chết lâm sàng được định nghĩa là không mạch, không nhịp tim và không thở, trong khi chết sinh học được định nghĩa là không có hoạt động não.
Nhìn vào những định nghĩa này, bạn có thể cho rằng xác định một người đã chết là rất dễ dàng - nhưng trong một số trường hợp, chuyện không đơn giản như vậy.
Có một số tình trạng bệnh có thể làm cho một người "có vẻ" đã chết. Hạ thân nhiệt, chứng giữ nguyên thế, và hội chứng “khóa chặt”
Một trong những tình trạng đó là hạ thân nhiệt, trong đó cơ thể bị giảm thân nhiệt đột ngột, có thể gây tử vong, thường do tiếp xúc kéo dài với lạnh.
Hạ thân nhiệt có thể khiến nhịp tim và nhịp thở chậm đến mức gần như không thể phát hiện được. Người ta tin rằng hạ thân nhiệt đã dẫn đến thông báo nhầm cái chết của một em bé sơ sinh ở Canada vào năm 2013.
Em bé trong vụ việc này bị đẻ rơi trên vỉa hè giữa trời lạnh. Các bác sĩ không thể bắt được mạch, và em bé được tuyên bố là đã chết. Hai giờ sau, em bé bắt đầu cử động.
Theo TS Michael Klein, Đại học British Columbia, Canada, sự tiếp xúc của trẻ với nhiệt độ như vậy có thể giải thích lý do. Toàn bộ lưu thông máu sẽ dừng lại, nhưng tình trạng thần kinh của đứa trẻ có thể được bảo vệ nhờ nhiệt độ lạnh.
Chứng giữ nguyên thế (catalepsy) và hội chứng “khóa chặt” là những ví dụ khác khiến một người sống có thể bị nhầm là đã chết. Chứng giữ nguyên thế đặc trưng bởi trạng thái giống “mất hồn”, hô hấp chậm, giảm cảm giác và hoàn toàn bất động, có thể kéo dài từ vài phút đến vài tuần. Tình trạng này có thể nảy sinh như một triệu chứng của các rối loạn thần kinh như động kinh và bệnh Parkinson.
Trong hội chứng khóa chặt, bệnh nhân nhận thức được môi trường xung quanh, nhưng bị liệt hoàn toàn các cơ vận động tự chủ, trừ các cơ kiểm soát chuyển động của mắt.
Năm 2014, tờ Daily Mail đã báo cáo về một phụ nữ 39 tuổi người Anh, Kate Allatt, bị hội chứng khóa chặt. Không biết về tình trạng của bệnh nhân, các bác sĩ tuyên bố cô bị chết não. Các nhân viên y tế, gia đình và bạn bè đứng cạnh giường ngủ của cô và thảo luận về việc có nên rút máy hỗ trợ sự sống hay không. Allatt nghe được tất cả nhưng không thể nói với họ rằng mình hoàn toàn tỉnh táo.
Hội chứng khóa chặt giống như bạn bị chôn sống. Bạn có thể nghĩ, có thể cảm nhận, có thể nghe, nhưng hoàn toàn không thể giao tiếp.
Xác nhận chết không nghi ngờ
Nếu bài viết này khiến bạn cảm thấy lạnh sống lưng, đừng sợ hãi; Hội chứng Lazarus cực kỳ hiếm gặp, và khả năng bị tuyên bố nhầm là đã chết cũng vậy. Tuy nhiên, những trường hợp này đã làm nảy sinh câu hỏi về nhận định và xác nhận tử vong trong bối cảnh lâm sàng để xem liệu dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân có trở lại hay không.
Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng bệnh nhân nên "theo dõi thụ động" trong 10 phút sau khi chết, vì đó là khoảng thời gian mà ROSC chậm nhiều khả năng xảy ra.
"Không nên xác nhận tử vong ở bất cứ bệnh nhân nào ngay sau khi ngừng CPR", các nhà nghiên cứu viết, "và nên đợi ít nhất 10 phút nếu không muốn nói là lâu hơn, xác minh và xác nhận chắc chắn tử vong”.
Tuy nhiên, về việc hiến tạng, một số nhà nghiên cứu khác lưu ý rằng chờ 10 phút để xem liệu ROSC có xảy ra không lại rất tai hại.
Các hướng dẫn hiện tại khuyên nên quan sát từ 2 đến 5 phút sau khi tim ngừng đập trước khi tuyên bố tử vong; dòng máu chảy vào nội tạng càng bị hạn chế lâu thì chúng càng khó phù hợp cho việc hiến tạng.
Căn cứ vào thực tế này, các qui trình xác nhận tử vong khó có thể thay đổi trong thời gian trước mắt.
Tuy nhiên, các chuyên gia y tế và các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng trong thời đại ngày nay, các bác sĩ có đủ chuyên môn và trang thiết bị để xác định khi một bệnh nhân nào đó qua đời.