Nhiều quan niệm sai lệch về lạm dụng và xâm hại tình dục ở nam giới như những cậu bé bị lạm dụng hẳn phải là đồng tính, những kẻ lạm dụng chỉ có thể là người đồng tính hoặc là phụ nữ, những nạn nhân nam sau khi bị lạm dụng tình dục sẽ không còn là đàn ông nữa...
Bài viết này sẽ chỉ ra một số hiểu nhầm thường thấy nhất về lạm dụng tình dục ở nam giới, từ đó chúng ta có thể thấu hiểu các nạn nhân cũng như giúp quá trình phục hồi của họ diễn ra dễ dàng hơn.
Hiểu lầm 1: Nam giới không thể bị xâm hại hay lạm dụng tình dục, nếu có thì ắt hẳn họ không phải là "đàn ông đích thực"
Đây là suy nghĩ mang tính "xã hội hóa nam giới" và ngụ ý rằng những nạn nhân của xâm hại, lạm dụng tình dục sẽ không bao giờ có thể trở thành "đàn ông thực thụ". Xã hội kỳ vọng những người đàn ông phải biết bảo vệ chính mình và những người đàn ông thành công luôn được khắc họa là người không bao giờ tổn thương cả về mặt thể xác lẫn tinh thần.
Dù chúng ta có đồng ý với quan niệm đó hay không thì vẫn phải nhớ rằng các cậu bé chưa là đàn ông, chúng chỉ là những đứa trẻ, chúng yếu đuối và dễ bị tổn thương.
Nỗi sợ rằng mình sẽ không được coi là đàn ông đích thực khiến các nạn nhân không dám chia sẻ những tổn thương của mình. Ảnh: Ldsmag |
Hiểu lầm 2: Nếu nạn nhân thấy kích thích, hưng phấn khi bị lạm dụng thì chuyện xảy ra là lỗi của họ
Nhiều nam giới tin vào câu chuyện hoang đường này và cảm thấy tội lỗi, xấu hổ vì họ thật sự đã thấy hưng phấn trong quá trình bị lạm dụng. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng họ cũng có thể có phản ứng như cương cứng hay lên đỉnh khi bị kích thích, thậm chí là trong những tình huống bị cưỡng bức hay đau đớn.
Những kẻ lạm dụng cũng hiểu rõ điều này và thường nói với các nạn nhân rằng, phản ứng này cho thấy họ thích những động chạm tình dục.
Hiểu nhầm 3: Bé trai bị lạm dụng tình dục bị tổn thương ít hơn các bé gái
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hệ quả lâu dài của lạm dụng và xâm hại tình dục có thể gây tổn thương nặng nề cho cả nữ giới và nam giới.
Những tổn thương do lạm dụng và xâm hại tình dục gây ra không phụ thuộc vào giới tính mà còn nhiều yếu tố khác như: đối tượng lạm dụng, thời gian diễn ra sự xâm hại, nạn nhân có chia sẻ vấn đề với người khác không,...
Những chấn thương về thể chất và tinh thần do lạm dục tình dục gây ra với nam giới và nữ giới là như nhau. Ảnh: Newspunch |
Hiểu nhầm 4: Hầu hết tội phạm nam xâm hại các bé trai đều là người đồng tính
Các khảo sát đã chứng minh những người xâm hại tình dục các bé trai thường là người dị tính hoặc có các mối quan hệ dị tính tại thời điểm gây ra hành vi xâm hại. Trên thực tế, không có dấu hiệu gì cho thấy những người đồng tính nam có nhiều khả năng thực hiện hành vi xâm hại hơn, thậm chí một vài nghiên cứu còn cho thấy điều này ít có khả năng xảy ra hơn với người đồng tính.
Hiểu lầm 5: Những bé trai bị lạm dụng tình dục là người đồng tính hoặc có xu hướng trở thành người đồng tính
Nhiều nạn nhân tự nghĩ rằng mình sẽ bị thay đổi giới tính sau khi bị xâm hại, không còn là người đàn ông bình thường hoặc có cảm xúc với người đồng giới. Không có chứng cứ nào cho việc ai đó có thể "khiến" người khác trở thành người đồng tính hay dị tính. Thiên hướng tình dục là một vấn đề phức tạp và không có cơ sở khoa học nào cho việc tại sao một người tự nhận mình là người đồng tính, dị tính hay song tính.
Lạm dụng tình dục ở nam giới là điều có thể xảy ra với bất kỳ ai, dù là đàn ông hay người đồng tính. Ảnh: Momorad |
Hiểu lầm 6: Những cậu bé bị lạm dụng sẽ tiếp tục trở thành kẻ lạm dụng
Đây là quan điểm đặc biệt sai lầm, thậm chí các nạn nhân cũng sợ rằng mình sẽ trở thành kẻ lạm dụng hoặc người khác phát hiện mình bị lạm dụng và coi họ là mối nguy hiểm với trẻ em. Họ thường bị xem là những người có nguy cơ phạm tội thay vì nên được nhìn nhận là những nạn nhân cần được giúp đỡ.
Đến khi nào xã hội vẫn còn tin và tuyên truyền những quan điểm sai lệch này, những nạn nhân nam đã trải qua những tổn thương sâu sắc về cả thể chất lẫn tinh thần do xâm hại và lạm dụng tình dục gây ra sẽ không nhận được sự cảm thông, giúp đỡ mà họ cần. Những quan niệm này cần được loại bỏ để tất cả nạn nhân có thể vượt qua được những nỗi đau và để xã hội có một nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề.