Đại tá - bác sĩ Phạm Văn Tiến, Trưởng khoa Cấp cứu Bệnh viện 103 (Học viện Quân y, Hà Nội), cho hay viêm tụy cấp là căn bệnh có diễn biến phức tạp, khó lường. Việc cấp cứu và điều trị bệnh đòi hỏi phải chính xác, nhanh chóng. Việc cấp cứu một bệnh nhân viêm tụy cấp phải trải qua các bước như sau:
Thăm khám lâm sàng
Biểu hiện đặc trưng nhất của bệnh nhân viêm tuỵ cấp là đau bụng, chủ yếu đau vùng thượng vị, đau dữ dội, đột ngột sau bữa ăn thịnh soạn. Đau thường kéo dài, lan ra sau lưng, hoặc hạ sườn 2 bên. Bệnh nhân cũng có biểu hiện nôn và buồn nôn, thường xảy ra sau đau.
Khi thăm khám bác sĩ có thể thấy bụng chướng nhẹ, phản ứng thành bụng, không có co cứng thành bụng, nhu động ruột giảm hoặc mất do liệt ruột, gõ đục vùng thấp (dịch tự do ổ bụng), các dấu hiệu của nguyên nhân như tắc mật…
Theo bác sĩ Tiến, khi thăm khám lâm sàng có thể đưa ra chẩn đoán viêm tụy cấp lên tới 70-80%. Tuy nhiên, việc điều trị ban đầu vẫn là nội khoa bằng thuốc, truyền dịch chứ không phải một dạng cấp cứu khẩn cấp như thủng, vỡ nội tạng.
Viêm tụy cấp là bệnh có diễn biến khó lường. Ảnh: Churchmilitant. |
Chẩn đoán hình ảnh
Theo phác đồ điều trị của Bộ Y tế, các chẩn đoán hình ảnh đặc biệt có giá trị trong viêm tụy cấp. Các chẩn đoán hình ảnh này bao gồm chụp phim bụng không chuẩn bị, siêu âm ổ bụng, đặc biệt là chụp cắt lớp vi tính khi chụp không chuẩn bị hay siêu âm ổ bụng bị hạn chế do bụng quá trướng, thành bụng dày, phương pháp này sẽ cho thấy hình ảnh chi tiết trong viêm tụy, mức độ viêm để bác sĩ có thể chỉ định xử trí.
Sau khi có kết quả chẩn đoán hình ảnh, các bác sĩ sẽ đánh giá mức độ của viêm tụy cấp để có phác đồ điều trị thích hợp. Mức độ của bệnh được chia theo nhiều thang điểm, càng nặng, càng nhiều yếu tố, tình trạng càng nặng và tiên lượng càng xấu.
Điều trị hồi sức tích cực
Theo bác sĩ Tiến, người bệnh viêm tụy cấp nặng cần được vào viện điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với nguyên tắc điều trị sớm, tích cực và theo dõi chặt chẽ.
Theo đó, các bác sĩ cần theo dõi và đánh giá về tuần hoàn, hô hấp, chức năng gan, thận, suy đa tạng để hạn chế tối đa các biến chứng do viêm tụy cấp gây nên.
- Hồi sức tuần hoàn: Thông thường trong 24 giờ đầu người bệnh cần bù từ 4-6 lít dịch muối đẳng trương. Với người bệnh có biến chứng đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm để truyền dịch, đưa thuốc, nuôi dưỡng.
- Hồi sức hô hấp: Với các biện pháp bao gồm thở oxy kính mũi, oxy mặt nạ, thở máy không xâm nhập, thở máy xâm nhập đặc biệt,…
- Hồi sức chống đau: dùng các thuốc tiêm tĩnh mạch giảm đau.
- Dùng kháng sinh, nuôi dưỡng đường tĩnh mạch,...
Ngoài biện pháp điều trị nội khoa trên, khi bệnh nhân diễn biến nặng, các bác sĩ phải chỉ định các biện pháp cao hơn, gồm lọc máu và phẫu thuật.
Lọc máu được sử dụng đối với người bệnh viêm tụy cấp nặng đến sớm trong vòng 72 giờ đầu hoặc có suy đa tạng ở người bệnh đến muộn.
Còn phẫu thuật được chỉ định trong trường hợp chảy máu cấp trong ổ bụng do viêm tụy cấp hoại tử ăn mòn vào mạch máu gây mất máu trong ổ bụng cấp nhiều hoặc khi bị áp xe tụy cũng cần phải mổ để dẫn lưu.
Theo các chuyên gia, viêm tụy cấp có thể gây hoại tử các tạng xung quanh. Nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời, viêm tụy cấp có thể diễn biến thành hoại tử tụy, thường hoại tử tụy ít khi khu trú mà lan rộng do hiện tượng tự tiêu của tuyến tụy dưới tác động của các men tiêu protein và lipid được hoạt tác ngay trong lòng tuyến tụy.
Tiếp theo đó sẽ dẫn đến chảy máu tụy, thậm chí gây hoại tử tụy các tạng xung quanh như hoại tử mạch mạc treo gây chảy máu trong ổ bụng, gây thủng tá tràng, đại tràng... muộn hơn sẽ biến chứng thành áp xe tụy. Bệnh nhân tử vong do chảy máu, sốc nhiễm khuẩn.