Theo luật mới có hiệu lực từ ngày 1/2, các công chức liên bang của chính quyền Bỉ sẽ không cần phải trả lời email hoặc cuộc gọi từ cơ quan ngoài giờ làm việc, trừ những trường hợp rất đặc thù. Giới chức nước này có kế hoạch mở rộng phạm vi áp dụng đến cả người lao động trong khối tư nhân.
Petra De Sutter, Bộ trưởng phụ trách lĩnh vực hành chính công, nói luật này là cần thiết nhằm ứng phó với "văn hóa" công nhân viên cho rằng họ luôn phải có mặt khi sếp gọi, theo Guardian. Tình trạng này có xu hướng gia tăng khi nhiều người phải làm việc tại nhà trong bối cảnh dịch Covid-19.
Văn hóa “luôn có mặt” từ lâu trở thành vấn đề của người lao động toàn cầu. Các quốc gia trên mọi châu lục cũng cố gắng khắc phục tình trạng này bằng quy định pháp luật về “quyền được ngắt kết nối”.
Quyền ngắt kết nối
Mọi ngày, Jee Hyae Rim, 31 tuổi, nhân viên văn phòng ở Seoul (Hàn Quốc), rời công sở vào lúc 17h30 nhưng chị vẫn thường nhận cuộc gọi và tin nhắn từ sếp hoặc đồng nghiệp vào lúc 19h-20h.
“Tôi đã mấy lần nói là nếu có việc gấp thì gửi email nhưng họ cứ gọi. Rất khó chịu nhưng tôi cứ phải kiểm tra email và trả lời tin nhắn khi đã ở nhà”, Jee nói với Korea Times trong một bài báo cuối tháng 12/2021. “Giữa công việc và đời sống riêng chẳng còn mấy ranh giới gì nữa”.
Tại Hàn Quốc, trong một khảo sát do Viện Nghiên cứu Gyeonggi thực hiện với 500 nhân viên tại tỉnh Gyeonggi cuối năm 2021, 87,8% người trả lời cho biết họ bị liên lạc để hỏi công việc ngoài giờ làm, 34,2% nói chuyện này xảy ra ít nhất một lần mỗi tuần.
Nhiều năm qua, các nước cố xây dựng những điều luật hiệu quả về “quyền được ngắt kết nối”, có thể là giới hạn số ngày làm việc trong tuần hoặc hạn chế liên lạc ngoài giờ làm chính thức.
Dù có hình thức nào, mục đích chung của những quy định này đều là giúp người lao động không phải làm việc quá sức và đảm bảo họ không bị phạt nếu từ chối trả lời tin nhắn hoặc điện thoại sau giờ làm, chẳng hạn như không được thăng chức vì không chịu làm cuối tuần.
Trong thời gian làm việc ở nhà vì đại dịch, người lao động khó có thể có quyền được ngắt kết nối đầy đủ, kể cả ở những nước có quy định pháp luật. Ảnh: iStock. |
Ngoại trừ trường hợp mới nhất ở Bỉ, những quy định pháp lý đầu tiên về quyền được ngắt kết nối xuất hiện tại Pháp vào năm 2016, Italy vào năm 2017 và Tây Ban Nha vào năm 2018.
Suốt 20 năm qua, Đức cũng có động thái bảo vệ quyền ngắt kết nối của người lao động, nhưng không thông qua quy định pháp luật. Thay vào đó, cổ đông của các công ty sẽ đàm phán về vấn đề này.
Một số tập đoàn đa quốc gia của Đức thậm chí có các biện pháp cứng rắn. Chẳng hạn tại Volkswagen, nhân viên không phải cấp quản lý được cho là không thể truy cập hòm thư bằng điện thoại di động từ 18h15 cho tới 7h sáng hôm sau.
Tuy là bước tiến quan trọng trong giai đoạn trước đại dịch, những động thái trên chủ yếu tập trung vào công việc cố định ở văn phòng. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi từ khi Covid-19 trỗi dậy. Trong lúc làm việc ở nhà vì dịch, nhiều người bị quá tải vì gần như không còn có thể tách bạch công việc và cuộc sống.
Ireland là một trong những quốc gia cố gắng giải quyết vấn đề này bằng luật “quyền ngắt kết nối” có xem xét yếu tố Covid-19. Điểm mới trong luật của Ireland nằm ở việc áp dụng chung cho cả người làm trực tiếp và làm từ xa, cũng như không quy định cứng thế nào là “giờ làm việc bình thường”.
Dù vậy, vẫn có một số người nghi ngờ hiệu quả của các quy định về quyền ngắt kết nối, đặc biệt là khi người lao động vừa muốn giờ làm việc linh hoạt, vừa muốn làm việc từ xa trong giai đoạn hậu đại dịch.
Eilee Schofield, một luật sư về quyền lợi lao động ở Anh, cho biết hầu hết hướng dẫn hiện hành tại châu Âu về quyền ngắt kết nối có quy định giờ làm việc “thông thường”. Nhưng chỉ một phần nhỏ người lao động tại đây làm việc theo giờ cố định trong năm qua.
Một văn phòng làm việc tại Hong Kong - thành phố nơi người lao động làm việc quá sức nhất thế giới trong năm 2021, theo bảng xếp hạng chỉ số cân bằng cuộc sống - việc làm toàn cầu của hãng Kisi. Ảnh: SCMP. |
Ngoài ra, nếu chủ lao động bị cấm liên lạc trong một khoảng thời gian nào đó (như cuối tuần hoặc buổi tối), họ sẽ muốn nhân viên phải có mặt đầy đủ trong thời gian quy định.
Như vậy, “phần lớn sự linh hoạt khi làm tại nhà sẽ biến mất. Bạn sẽ không còn có thể tranh thủ đi siêu thị hoặc đón con và bù giờ sau”, giáo sư kinh tế học Len Schackleton thuộc Đại học Birmingham (Anh), nói. “Tôi sẽ rất thận trọng với điều ước của mình”.
Tuần làm việc ngắn ngày
Một phong trào nữa đang trở thành xu hướng trên thế giới là chế độ tuần làm việc ít hơn 5 ngày mỗi tuần. Ý tưởng rút ngắn giờ làm việc mỗi tuần ngày càng có đà tiến, đặc biệt là sau khi xem xét các ví dụ thành công gần đây.
Một tuần làm việc ngắn hơn có thể có nhiều hình thái như tuần làm việc đủ 4 ngày hoặc nghỉ hai buổi chiều trong một tuần làm việc 5 ngày. Điều quan trọng nhất là mức lương vẫn không đổi.
Chuyên gia và người lao động vẫn đang tranh luận ý tưởng trên. Phía ủng hộ rút ngắn tuần làm việc cho rằng điều này có thể khắc phục những điểm tiêu cực trong công việc hiện tại, giúp người lao động tăng năng suất, khỏe mạnh và hạnh phúc hơn.
Thử nghiệm gần đây tại Iceland cho thấy chỉ giảm vài tiếng trong tuần làm việc "thực sự tạo ra sự khác biệt", theo Will Stronge, Giám đốc của Autonomy, viện chính sách ở Anh chuyên nghiên cứu tương lai việc làm. Ảnh: New York Times. |
Các nghiên cứu thử nghiệm chế độ tuần làm việc 4 ngày đã được thực hiện khắp thế giới và thường cho thấy người lao động sẽ làm được nhiều việc hơn khi giờ làm giảm.
Chẳng hạn, một nghiên cứu năm 2014 từ Đại học Stanford (Anh) cho thấy hiệu quả lao động sẽ sụt giảm nếu phải theo chế độ tuần làm việc 40 tiếng, theo BBC.
“Chúng ta không thể duy trì năng lượng trong 8 tiếng liên tục. Chúng ta khi làm vậy là đang phải kéo giãn sự tập trung trong thời gian dài. Vì thế, ta sẽ kém năng suất hơn”, John Trougakos, phó giáo sư về hành vi tổ chức thuộc Đại học Toronto (Canada), nói.
Để bù đắp cho điều ấy, nhiều người lao động chốc chốc lại dành thời gian trong 8 giờ làm để lướt mạng xã hội, mua sắm trực tuyến hoặc gửi tin nhắn, theo BBC. Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy người lao động có thể dành tới 2,5 tiếng mỗi ngày làm việc để lướt web.
Một nghiên cứu tại Iceland được thực hiện giai đoạn 2015-2019 đã quan sát 2.500 nhân viên nhà nước tại nhiều ban ngành khác nhau, trong lúc họ chuyển từ tuần làm việc 40 giờ sang 35-36 tiếng/tuần với mức lương không đổi.
Các nhà nghiên cứu phát hiện đại đa số phòng ban có hiệu suất làm việc không đổi hoặc thậm chí được cải thiện. Chẳng hạn, nhân viên phòng kế toán Reykjavik xử lý lượng hóa đơn chứng từ nhiều hơn 6,5% sau khi làm việc ít giờ hơn. Trong khi đó, tại một đồn cảnh sát, tuần làm việc ngắn ngày không làm giảm số lượng vụ án được đóng hồ sơ.
Giờ cao điểm tại Nhật Bản. Panasonic đầu tháng 1 thông báo kế hoạch tuần làm việc 4 ngày cho nhân viên tại Nhật Bản để tăng năng suất và thu hút tài năng, theo Nikkei. Ảnh: Reuters. |
Đồng thời, giờ làm việc ngắn hơn cũng giúp người lao động khỏe khoắn hơn.
Một nghiên cứu năm 2021 theo dõi người lao động Thụy Điển trong 10 năm cho thấy giờ làm việc giảm cũng giúp giảm stress, mệt mỏi và cảm xúc tiêu cực. Theo một nghiên cứu khác năm 2017, việc giảm 25% giờ làm sẽ giúp cải thiện giấc ngủ.
Giữa tháng 1, xu hướng giảm giờ làm đã được tiếp thêm đà tiến khi 30 công ty tại Anh thông báo sẽ tham gia thử nghiệm tuần làm việc ngắn hơn trong 6 tháng, bên cạnh các chương trình thử nghiệm khác sẽ được bắt đầu tại Mỹ, Ireland, Canada, Australia và New Zealand, theo Fortune.
Tuy nhiên, có nhiều lý do khiến việc rút ngắn giờ làm việc không phải giải pháp có thể áp dụng cho tất cả. Giải pháp này không thể được sử dụng cho mọi vị trí tại mọi ngành công nghiệp, đặc biệt là những công việc phục vụ khách hàng, theo BBC.
Dù vậy, Will Stronge, Giám đốc của Autonomy, viện chính sách ở Anh chuyên nghiên cứu tương lai việc làm, nhận định kết quả thử nghiệm ở Iceland cho thấy việc cắt giảm vài giờ trong tuần làm việc “dường như thật sự tạo ra khác biệt”.
Giới chuyên gia vẫn khuyến cáo cần thận trọng và suy xét kỹ khi áp dụng các mô hình công việc này, nhưng họ cũng cho rằng đây có thể là thời điểm thử nghiệm.
“Xã hội của chúng ta về cơ bản đã đạt tới thời điểm chuyển ngoặt và cho phép chúng ta thực hiện điều này”, phó giáo sư Trougakos nói. “Mọi người đã cởi mở hơn vì chúng ta vốn đã ở trong giai đoạn nhiều biến động”.