Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ mắc ung thư vú có cơ hội được chữa khỏi nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân mắc ung thư vú hiện nay tại Việt Nam chỉ được phát hiện khi ở giai đoạn muộn, bệnh đã lan rộng và di căn xa.
Người mắc ung thư vú có thể chữa khỏi nếu phát hiện sớm
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2020 trên thế giới có khoảng 2,3 triệu phụ nữ phát hiện mới mắc ung thư vú và 685.000 ca tử vong. Tại Việt Nam, cùng năm ghi nhận 21.500 phụ nữ mắc ung thư vú với hơn 9.300 ca tử vong. Trong 5 loại ung thư hay gặp nhất ở nữ giới, ung thư vú đứng vị trí đầu bảng với 43,1/100.000 dân; tỷ lệ tử vong 12,9/100.000 dân. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng trong những năm gần đây.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra người mắc ung thư vú có cơ hội chữa khỏi nếu được phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp. Phát hiện càng sớm thì việc điều trị càng đơn giản, hiệu quả, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp.
Tỷ lệ sống trên 5 năm của bệnh nhân ung thư vú ngày càng được cải thiện. Theo thống kê tại Mỹ, năm 2012, tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú sống trên 5 năm ở giai đoạn 0 và I là 100%, trong khi giai đoạn IV chỉ 22%. Tại Australia, tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú sống trên 5 năm kể từ khi phát hiện ở giai đoạn I là 100% và chỉ đạt 32% nếu phát hiện ở giai đoạn IV.
Còn tại nước ta, ngành y tế đã chữa trị cho nhiều trường hợp ung thư vú giai đoạn I - II khỏi bệnh trên 5 năm, sống 10 năm, 15 năm và đã có những trường hợp lập gia đình, sinh con.
Ung thư vú có thể chữa khỏi nếu sớm phát hiện và điều trị đúng phương pháp. |
Tuy nhiên thực tế tại Việt Nam, nhiều người vẫn chưa có kiến thức đầy đủ về biện pháp tự khám tại nhà, hay ý thức được tầm quan trọng của việc đi khám sàng lọc ung thư vú định kỳ. Do đó, phần lớn bệnh nhân đến khám và điều trị đã ở giai đoạn muộn, khả năng chữa khỏi thấp, chi phí điều trị tốn kém và kéo dài.
Nỗ lực cải thiện tỷ lệ chẩn đoán sớm ung thư vú
Năm 2020, đề án “Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020-2025” do Tổng hội Y học Việt Nam chủ trì, Roche Việt Nam phối hợp được khởi động. Đề án đặt mục tiêu giải quyết toàn diện và bền vững các vấn đề chính trong quản lý và điều trị ung thư vú với 4 mục tiêu chính.
Thứ nhất: Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về ung thư vú và tăng cường tầm soát ung thư vú.
Thứ 2: Hướng đến gia tăng chất lượng chẩn đoán và điều trị ung thư vú tại các bệnh viện.
Thứ 3: Tối ưu hóa cơ sở dữ liệu sẵn có, nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu chẩn đoán và điều trị ung thư vú.
Thứ tư: Hỗ trợ người bệnh ung thư vú nguy cơ cao tiếp cận liệu pháp điều trị tiên tiến bằng các giải pháp phối hợp.
Sau một năm, tại mục tiêu nâng cao nhận thức và cải thiện tỷ lệ chẩn đoán sớm ung thư vú, đề án đã triển khai nhiều hoạt động trong sàng lọc, điều trị tại các bệnh viện trọng điểm như Bệnh viện K, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhưng trong năm qua, đề án vẫn nỗ lực tổ chức nhiều chương trình tư vấn từ trực tuyến đến trực tiếp, cung cấp kiến thức bổ ích cho hàng nghìn phụ nữ qua mạng xã hội. Song song đó, các bệnh viện cũng tổ chức nhiều đợt tầm soát tại chỗ, giúp phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm.
Đề án “Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao” đã giúp hàng nghìn phụ nữ Việt Nam được tầm soát tại chỗ miễn phí nhằm phát hiện bệnh ung thư vú ở giai đoạn sớm. |
Một hoạt động nổi bật để hiện thực hóa mục tiêu của đề án phải kể đến chiến dịch “Chung tay vì người phụ nữ tôi yêu”, ký kết và thực hiện giữa Roche Việt Nam và quỹ hỗ trợ bệnh nhân ung thư Ngày mai tươi sáng. Các nỗ lực tuyên truyền, chia sẻ kiến thức đã đạt được hàng triệu lượt hiển thị, góp phần nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của khám sàng lọc tới cộng đồng.
Bên cạnh đó, các hoạt động xây dựng cơ sở dữ liệu cần thiết trong tầm soát, chẩn đoán và điều trị ung thư vú cũng tạo nền tảng quan trọng cho việc đánh giá hiệu quả điều trị, hoạch định chính sách trong tương lai.
Bình luận