Phóng viên có cuộc trao đổi với Thứ trưởng GD&ĐT Bùi Văn Ga xung quanh vấn đề rất mới này.
Hai trường tiên phong
- Thưa Thứ trưởng, vì sao Bộ Giáo dục và Đào tạo lại có điều chỉnh này?
- Thế giới ngày càng hội nhập và giáo dục đại học cũng không thể tách rời xu thế đó. Thực tế khung thời gian đào tạo đại học trên thế giới rất đa dạng, cấu trúc chương trình đào tạo cũng không giống nhau và đó là rào cản gây khó khăn cho việc công nhận chương trình, văn bằng giữa các nước, hạn chế việc trao đổi sinh viên. Vì vậy, các nước đều mong muốn tiệm cận dần với một khung thời gian đào tạo được nhiều quốc gia áp dụng nhất.
Tiến trình Bologna (nhằm tạo ra khu vực giáo dục đại học châu Âu với 3 nội dung: Thống nhất quá trình đào tạo; triển khai đảm bảo chất lượng; thực hiện công nhận văn bằng, chứng chỉ và thời gian học tập giữa các trường - PV) về cải cách giáo dục đại học châu Âu đang được các nước trong Cộng đồng Châu Âu áp dụng.
Thứ trưởng GD&ĐT Bùi Văn Ga. Ảnh: Vietnam+. |
Các nước ngoài khối này cũng sử dụng quy định của Cộng đồng Châu Âu như khung thời gian tham chiếu. Theo đó, thời gian đào tạo bậc đại học, thạc sĩ và tiến sĩ lần lượt là 3 năm, 5 năm và 8 năm kể từ khi người học tốt nghiệp tú tài.
Đào tạo đại học của chúng ta hiện nay từ 4-6 năm là dài so với khung thời gian chung của các nước trên thế giới. Thời gian đào tạo dài làm tăng chi phí đào tạo, giảm cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên, gây thiệt thòi cho sinh viên tốt nghiệp khi tham gia thị trường lao động trong thời kỳ hội nhập.
Tất nhiên, đưa ra khung thời gian mới không có nghĩa là các trường phải ngay lập tức rút ngắn thời gian đào tạo xuống nhưng Bộ GD&ĐT khuyến khích xây dựng các chương trình mới phù hợp với khung đó.
Ví dụ, hai trường xuất sắc hiện nay là Đại học Việt-Đức và Đại học Khoa học Công nghệ Hà Nội đã xây dựng chương trình đào tạo theo đúng tiến trình Bologna. Các trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay cũng đã áp dụng khung thời gian đào tạo tương tự
Thời gian giảm, kiến thức-kỹ năng tăng?
- Việc rút ngắn thời gian đào tạo liệu có đảm bảo đủ lượng kiến thức, chất lượng chuyên môn không thưa Thứ trưởng, khi mà sinh viên Việt Nam vẫn còn phải học thêm các môn bắt buộc?
- Rút ngắn khung thời gian đào tạo không có nghĩa cắt ngắn chương trình và giảm chất lượng đào tạo. Khối lượng kiến thức, kỹ năng tối thiểu của các chương trình đào tạo phải được tăng cường để đáp ứng yêu cầu của khung trình độ quốc gia.
Các môn học bắt buộc theo quy định phải được duy trì, kiến thức chuyên môn cốt lõi của mỗi chương trình phải được xây dựng lại một cách có hệ thống, chặt chẽ, cô đọng sao cho thời gian sinh viên lưu lại trường đại học giảm nhưng kiến thức, kỹ năng sinh viên tốt nghiệp được tích lũy được tốt hơn và có ích hơn cho hoạt động nghề nghiệp.
Nghĩa là khi rút ngắn thời gian đào tạo thì chương trình, phương pháp giảng dạy của người thầy, phương pháp học tập của sinh viên, cách quản lý đào tạo của các trường đại học cũng phải thay đổi căn bản.
Hơn 10 năm nay, chúng ta đã đổi mới quản lý đào tạo đại học, chuyển từ niên chế sang tín chỉ. Quy chế đào tạo đã mềm dẻo hơn nhiều so với trước. Do đó, mặc dù luật quy định thời gian đào tạo đại học ít nhất 4 năm, nhưng nhiều sinh viên đã tích lũy đủ tín chỉ để tốt nghiệp trong 3 năm. Đó là bằng chứng thực tiễn cho thấy chúng ta có thể rút ngắn thời gian học trên giảng đường.
- Hiện tất cả các trường đại học đã học theo tín chỉ. Như Thứ trưởng vừa cho biết, với phương thức này, rất nhiều sinh viên có thể rút ngắn thời gian đào tạo của mình xuống 3 năm, các em cũng có thể linh hoạt sắp xếp kế hoạch học tập theo thời gian phù hợp với bản thân. Như vậy, việc ban hành khung thời gian đào tạo có còn cần thiết, thưa ông?
- Việc ban hành khung thời gian đào tạo là cần thiết. Theo đó, sinh viên có thể học vượt, rút ngắn thời gian, không nhất thiết phải mất 4 năm học đại học, nhưng 3 năm là tối thiểu, không thể rút hơn được nữa.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy có thể nâng cao hiệu quả đào tạo nhưng sinh viên cần có thời gian tối thiểu ở trường đại học để rèn luyện phẩm chất, phong cách sống, giao tiếp, làm việc theo nhóm… chuẩn bị hành trang đầy đủ trước khi bước vào đời.
- Vậy còn với ngành Y, hiện đào tạo bác sĩ đang là 6 năm, thậm chí các trường Y đang kiến nghị phải kéo dài lên đến 8 năm. Tuy nhiên, theo khung đào tạo mới này, trình độ đại học ngành Y cũng sẽ dừng lại ở 4 năm. Thứ trưởng có thể nói rõ hơn về điều này?
- Không phải chỉ ở nước ta mà ở các nước phát triển cũng vậy, đào tạo bác sĩ y khoa để khám chữa bệnh cho nhân dân cần khung thời gian dài. Bên cạnh học ở trường sinh viên phải thực hành, thực tập nhiều ở bệnh viện.
Theo quy định của nước ta, hiện nay, đào tạo đại học ngành y phải kéo dài trong 6 năm. Các sinh viên đỗ ngành này là những em giỏi, học thời gian dài nhưng khi ra trường cũng chỉ là tốt nghiệp đại học như các ngành học 4 năm khác, hưởng cùng hệ số lương. Điều này rất thiệt thòi cho sinh viên ngành y.
Đề xuất cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân mới quy định khung thời gian đào tạo đại học tối đa là 4 năm nghĩa là các chương trình đào tạo phải được thiết kế sao cho sau khoảng thời gian tối đa này, sinh viên phải được công nhận trình độ đại học.
Đương nhiên để trở thành bác sĩ khám chữa bệnh, kỹ sư những ngành đặc thù… thì sinh viên tiếp tục được đào tạo. Trình độ tiếp theo được công nhận dựa vào khung trình độ quốc gia của nước ta được xây dựng tương thích với khung trình độ tham chiếu ASEAN. Theo đó, đào tạo đại học có 3 bậc: bậc 6 (đại học), bậc 7 (thạc sĩ) và bậc 8 (tiến sĩ).