Thỏ (Oryctolagus cuniculus domesticus Gmelin) thuộc họ thỏ (Leporidae) là một vật nuôi ở gia đình (gia súc) được du nhập vào Việt Nam từ cách đây hơn 100 năm.
Thịt thỏ chứa 38,4% nước, 11,8% protid, 4,4% lipid, 11,6 mg% calci, 123,2 mg% phospho, 0,9 mg% sắt, 4,2 mg% vitamin PP.
Trong thực phẩm, thịt thỏ ăn ngon, nhưng mức tiêu thụ không bằng thịt của các loài gia súc và gia cầm khác.
Về mặt thuốc, thịt thỏ được dùng với tên thỏ nhục, có vị ngọt, cay, tính bình, không độc, có tác dụng bổ trung ích khí, hoạt huyết giải độc, chống đau tê, chữa suy nhược gầy yếu, chứng tiêu khát (nhất là những người vừa ốm dậy), dạ dày nóng gây nôn, đái ra máu. Dạng dùng thông thường là thịt nấu chín ăn. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc nguồn gốc thực vật trong những trường hợp sau:
- Chữa suy nhược cơ thể sau khi ốm, phụ nữ huyết hư, gầy yếu: Thịt thỏ 100-200 g, thái nhỏ, hấp cách thủy hoặc nấu chín nhừ với táo Tàu 15-20 g, rồi ăn nóng. Ngày làm một lần.
- Chữa đái tháo đường: Thịt thỏ 100-200 g, câu kỷ tử 15 g. Đun nhỏ lửa với nước đến khi thịt nhừ, thêm ít muối, ăn làm một lần trong ngày. Dùng nhiều ngày.
Ngoài ra, nhiều bộ phận khác của thỏ cũng được dùng làm thuốc như xương thỏ (thỏ cốt) có vị ngọt, chua, tính bình, có tác dụng trấn tĩnh, khu phong, giải độc, tiêu sưng, chữa đầu váng, háo khát dưới dạng nước sắc hoặc ngâm rượu uống. Dùng ngoài, xương thỏ phơi khô, tán bột rắc trị mụn nhọt, ghẻ lở.
Gan thỏ (thỏ can) có vị ngọt, đắng, mặn, tính hàn, có tác dụng bổ gan, làm sáng mắt chữa choáng váng do gan yếu, mắt mờ, có màng mộng, đau mắt. Ngày dùng 16-20 g gan phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn.
Tiết thỏ (thỏ huyết) có vị mặn, tính hàn, không độc, có tác dụng hoạt huyết, lương huyết, chữa các chứng ngộ độc. Uống ngay khi mới cắt tiết thỏ, mỗi lần một chén nhỏ.
Da lông thỏ (thỏ bì mao) đốt tồn tính, tán bột, rắc để làm lành các vết thương, vết bỏng, nhất là những vết lâu ngày không khỏi.
Óc thỏ (thỏ não) luyện với đinh hương, nhũ hương và xạ hương làm thành viên, uống làm thuốc trợ sản chữa đẻ khó.
Đầu thỏ (thỏ đầu cốt) 1 cái, làm sạch, chặt nhỏ, nấu với gạo tẻ thành cháo, ăn hết làm một lần trong ngày để chữa cam lỵ trẻ em, trúng độc, sang lở.