Theo sách "Kể chuyện lịch sử Việt Nam", năm Phan Thanh Giản 20 tuổi, cha ông bị bắt giam vào ngục. Thương cha tuổi cao sức yếu, ông đến thành Vĩnh Long gặp quan Hiệp trấn để xin đi tù thay cha.
Không được chấp nhận, hàng ngày, ông đến ngục thất làm những việc nặng nhọc thay cha mình. Thấy Phan Thanh Giản là người con chí hiếu, sau khi cha mãn hạn tù, quan Hiệp trấn đã giúp ông ở lại địa phương để được học tập.
Tại đây, ông gặp người phụ nữ nhân hậu tên Ân. Bà này đã giúp ông tiền và cơm, áo... để tiếp tục theo đuổi việc đèn sách.
Vị tiến sĩ khai khoa
Phan Thanh Giản (1796-1867), quê gốc tỉnh Bến Tre. Vốn là quan đại thần của nhà Nguyễn, cuộc đời ông phải trải qua rất nhiều lênh đênh.
Sinh ra trong gia đình khó khăn, mẹ mất năm ông mới lên 7 tuổi, nhà nghèo không có điều kiện đến trường, Phan Thanh Giản phải học nhờ của một vị sư ở chùa làng.
Sau sự kiện xin đi tù thay cha, viên quan Hiệp trấn họ Lương (không rõ tên) giúp Phan Thanh Giản tiếp tục học tập. Vốn người thông minh, chăm chỉ, nhận được sự giúp đỡ của nhiều người, Phan Thanh Giản học hành tiến bộ.
Năm 1825, ông thi đỗ cử nhân ở trường thi Gia Định. Một năm sau, ông dự thi Hội và đỗ tiến sĩ, trở thành vị tiến sĩ khai khoa của vùng đất Nam Kỳ.
Chân dung Phan Thanh Giản: Ảnh: Báo Vĩnh Long. |
Phan Thanh Giản được bổ nhiệm làm quan ở Hàn lâm viện, thăng dần lên Đại lý tự khanh, sung Cơ mật viện đại thần (1834), tiếp đó là thượng thư Bộ Binh và Bộ Lại, tổng tài trông coi việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục của triều Nguyễn…
Khi làm quan, Phan Thanh Giản nhiều lần dâng sớ xin vua quan tâm đời sống của nhân dân. Theo sách "Truyện đọc lịch sử Việt Nam", năm 1826, có mưa lớn ở kinh thành, ông đã dâng sớ xin vua Minh Mạng giảm bớt số cung tần, mỹ nữ.
Năm 1836, khi đang làm Tuần phủ Quảng Nam, biết tin Minh Mạng muốn chu du tới núi Ngũ Hành, ông lập tức dâng sớ can vua, bởi Quảng Nam bấy giờ mất mùa, đói kém, dân đang độ cày cấy, không nên bắt họ phải bỏ bê đồng áng để sửa sang đường sá phục dịch.
Sau sự kiện này, dù hoãn chuyến đi, vì cả giận, vua Minh Mạng đã giáng ông xuống làm thuộc viên (lính hầu) ở Quảng Nam.
Dù bị giáng chức, Phan Thanh Giản không hề oán thán. Hàng ngày, ông vẫn quét dọn bàn ghế ở công đường. Khi các quan đứng xử kiện, ông làm lính hầu bên cạnh.
Đám quan lại cấp dưới ngày xưa nói: “Xin quan lớn tìm chỗ ngồi, nếu quan lớn hầu hạ thế, chúng tôi làm sao ngồi yên xử án được”. Đáp lại, Phan Thanh Giản chỉ trả lời rằng: “Các ông cứ làm việc của mình. Còn tôi, vua phán sao, tôi nghe vậy”.
Năm 1839, khi giữ chức Thị lang Bộ Hộ, vì bênh vực lẽ phải cho một đồng liêu, Phan Thanh Giản đã kịch liệt chống lại Viện cơ mật. Từ đó, ông nổi tiếng là người cương trực, gặp việc sai dám nói.
Khi đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ năm 1852, ông cùng Nguyễn Tri Phương dâng sớ kêu gọi vua Tự Đức tránh xa đám gian thần, chọn bầy tôi trung, giảm tiêu pha, tạp dịch cho binh lính… Khâm phục Phan Thanh Giản, vua Tự Đức đã tặng cho ông 4 chữ “Liêm, Bình, Cần, Cán”.
Chuyến xuất ngoại đầu tiên của tiến sĩ nước Việt
Giữa năm 1863, Phan Thanh Giản được vua Tự Đức cử làm chánh sứ sang Pháp, cùng đi với ông còn có 2 tiến sĩ khác là Phạm Phú Thứ (Phó sứ) và Ngụy Khắc Đản (Bồi sứ).
Trong chuyến đi này, Phan Thanh Giản và phái đoàn của mình lần đầu được tiếp xúc nền văn minh phương Tây thông qua các lĩnh vực như: Tài chính, giao thông, bưu điện, quân sự… Ông cũng có dịp thảo luận với sứ thần các nước khác như Áo, Phổ (Đức) về hệ thống thuế khóa của họ.
Đoàn sứ bộ của Phan Thanh Giản tại Pháp năm 1863. Ảnh: Quốc sử quán triều Nguyễn. |
Sau khi về nước, Phan Thanh Giản đề nghị triều đình ký một số hòa ước với thực dân Pháp, đặt quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, mở rộng buôn bán với nước ngoài, cử người du học, cải tổ nội trị theo mô hình phương Tây. Tiếc rằng, những tấu sớ của ông không được vua Tự Đức nghe theo.
Buồn chán trước thực tại, Phan Thanh Giản từng làm thơ than rằng: Từ ngày đi sứ đến Tây kinh / Thấy việc châu Âu luống giật mình / Nhắn nhủ đồng bang mau tỉnh dậy / Hết lòng năn nỉ chẳng ai tin.
Cuối năm 1865, vua Tự Đức lại cử Phan Thanh Giản làm Kinh lược sứ ở 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Ngày 20/6/1867, quân Pháp đem binh thuyền đến Vĩnh Long, yêu cầu Phan Thanh Giản phải nộp thành. Biết không thể chống nổi, ông đã yêu cầu binh lính dâng thành để nhân dân bớt đổ máu.
Không giữ được 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, Phan Thanh Giản viết một tờ sớ với lời lẽ rất thống thiết, kèm 23 đạo sắc từng được vua sắc phong cùng triều phục, gửi về vua Tự Đức rồi tuyệt thực.
Sau 17 ngày nhịn ăn, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử. Trước khi qua đời, ông căn dặn con cháu không được nhậm chức của thực dân Pháp, khuyên con cháu chớ nên trục lợi cầu vinh mà làm những điều nhẫn tâm, bại lý, cố gắng học hỏi cho bằng người Tây Âu, phò vua, giúp nước, lo toan hết sức, họa may về sau có thể làm vẻ vang cho đất nước.
Cuối cùng, ông dặn con cháu chỉ ghi trên mộ của mình dòng chữ: Đại Nam hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi cửu, nghĩa là: Người học trò nghèo họ Phan ở góc biển Đại Nam, rồi đem linh cửu về chôn ở làng Bảo Thạnh (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre ngày nay).
Sau khi Phan Thanh Giản qua đời, vua Tự Đức hạ lệnh nghị tội ông cùng các đại thần khác đã để mất 6 tỉnh Nam Kỳ vào tay thực dân Pháp. Phan Thanh Giản bị truy đoạt chức quan, định tội trảm giam hậu, bị đục tên trên bia tiến sĩ. Đến năm 1886, vua Đồng Khánh mới ra sắc chỉ phục hồi chức sắc cho ông.
Suốt thời gian dài, Phan Thành Giản bị phê phán là kẻ bán nước vì đã dâng thành Vĩnh Long, ký hòa ước bất lợi với thực dân Pháp. Tuy nhiên, các nhà sử học hiện nay đã có cách nhìn nhận công bằng hơn về những công trạng, tấm lòng vì nước, vì dân của ông.
Việc nước ta rơi vào tay thực dân Pháp là lỗi hệ thống của cả triều đình nhà Nguyễn, của chế độ phong kiến Việt Nam đến hồi suy kiệt.