Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Đem con chữ đến bản làng vùng cao

Những ngày đầu tháng 5 này, chúng tôi có chuyến đi thực tế ở huyện miền núi vùng cao Phước Sơn (Quảng Nam) tìm hiểu về công tác giáo dục ở nơi đây.

Nằm tách biệt so với thế giới bên ngoài, cuộc sống của bà con thôn Ka Tủ (xã Phước Lộc, huyện Phước Sơn, Quảng Nam) còn muôn vàn khó khăn. Nhưng hàng chục năm qua, nhờ nhiệt huyết và tình cảm với bà con mà những giáo viên cắm bản đã âm thầm “cõng con chữ” lên non, không để cho các em học sinh phải thất học.

Băng rừng đến với học sinh

Gặp thầy Nguyễn Văn Ánh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Phước Lộc, huyện Phước Sơn tại điểm trường chính, khi nghe chúng tôi nói muốn được lên điểm trường thôn Ka Tủ, thầy Ánh cảm thấy e ngại, không phải vì có sợ điều gì mà vì con đường lên đó quá khó khăn.

Thầy Ánh cho biết, tại thôn Ka Tủ có 2 lớp ghép và nhà trường có 2 giáo viên phụ trách tại đây. Ka Tủ thuộc vào một trong những điểm trường khó khăn nhất của huyện miền núi vùng cao Phước Sơn. Điểm trường này được thành lập từ năm 1992.

Nghe chúng tôi hỏi về những mặt thuận lợi của điểm trường lẻ, thầy Ánh cười: “Thuận lợi thì chả có thuận lợi gì, chỉ có điều, nhân dân quan tâm đến việc học của con em thôi”.

 

Còn khó khăn thì rất nhiều, đó là giao thông đi lại lầy lội quanh năm, thầy cô thường phải đi bộ qua rừng; cơ sở vật chất được làm tạm (thưng ván, mái lợp tôn) từ những năm 1990 nên xuống cấp trầm trọng, dù nhà trường đã sửa chữa hàng năm.

“Giáo viên chủ yếu ở nơi khác đến công tác nên chỗ ở với họ là rất cần thiết. Hiện nay giáo viên đang phải ở trong nhà tranh, vách nứa. Học sinh 100% là con em hộ nghèo, bà con dân tộc Bhnong, Ca Dong là chủ yếu. Dù họ rất quan tâm đến con em họ nhưng cái khó nó bó cái khôn”, thầy Bình đứng bên cạnh bổ sung thêm.

Chúng tôi quyết định theo chân hai thầy giáo Trường Tiểu học Phước Lộc lên thăm thôn Ka Tủ.

Trước lúc lên đường, thầy Ánh và thầy Bình không quên trấn an “đường đi khó lắm đấy, chúng ta chuẩn bị tinh thần rồi mình băng rừng nhé”. Con đường ngắn nhất và nhanh nhất để lên thôn Ka Tủ là phải trèo qua ba ngọn đồi, theo các thầy giáo thì con đường này dài chừng 3,5 km và phải mất gần 2 giờ đi bộ.

Dù chưa đặt chân đến thôn Ka Tủ, nhưng qua câu chuyện của các thầy giáo, chúng tôi cảm nhận được phần nào những khó nhọc mà các giáo viên cắm bản nơi đây đã phải trải qua.

Giao thông đi lại khó khăn là vậy, nhưng hàng chục năm qua, những giáo viên cắm bản của Trường Tiểu học Phước Lộc vẫn âm thầm vượt núi đến đây để dạy học cho trẻ em trong thôn. Thôn Ka Tủ gần như nằm tách biệt với thế giới bên ngoài.

Giao thông đi lại vốn đã cách trở, nơi đây vẫn chưa có điện, không có giao thương, có chăng chỉ toàn là chợ di động (người thồ hàng bán rong). Cuộc sống của người dân hoàn toàn tự cung tự cấp.

Vui theo tiếng cười con trẻ

Những tháng ngày khó khăn vất vả rồi các thầy cô giáo cũng quen dần với biết bao nỗi nhọc nhằn thiếu thốn, cũng tại nơi ấy, họ chôn giấu những nỗi niềm riêng của bản thân để gieo chữ cho học trò vùng cao. Nếu ai đã một lần đến, rồi ở lại đây vài ngày thôi cũng đủ cảm nhận được sự hy sinh thầm lặng của những giáo viên dạy cái chữ nơi núi rừng vùng cao này.

Họ âm thầm và hy sinh biết đến nhường nào. Nơi này, mây mù quanh năm bao phủ, tựa hồ như có một núi rừng còn “say ngủ”. Màn đêm buông xuống, vùng núi chìm trong sự thăm thẳm.

Bên những ánh đèn dầu leo lắt trong chập choạng tối, mọi thông tin, giao lưu với bên ngoài dường như biệt lập và tắt ngúm khi mà các điểm trường lọt thỏm giữa núi rừng sâu thẳm ngút ngàn.

Cô Trần Thị Hà là một trong những giáo viên có thâm niên gắn bó với thôn Ka Tủ nhiều nhất. Cô Hà đã về với bản làng nơi đây được gần 12 năm nay. Gia đình cô ở huyện Điện Bàn, cách nơi cô công tác khoảng 140 cây số.

Tuy nhiên, do đường đi lại khó khăn, cách trở nên cả tuần ở lại thôn dạy học, 2 hoặc 3 tháng cô mới lại vượt qua ba quả đồi để xuống thị trấn Khâm Đức mua vé xe để về nhà, những tháng ngày nắng cũng như ngày mưa, cứ đều đặn như vậy gần 12 năm nay vậy.

Mỗi lần về nhà, hành trang cô mang theo đến thôn Ka Tủ là thịt lợn muối, cá khô, trứng và mì tôm đủ cho một tuần ở đây… Với mỗi giáo viên đến đây công tác thường là 2-3 năm sẽ được luân chuyển về điểm trường chính. Nhưng, bản thân cô Hà đã tình nguyện xin ở lại với các em học sinh nơi đây.

“Cũng bởi vì gắn bó với bà con quá rồi, hơn nữa thấy thương các em, các cháu, vì cũng sợ xa nơi này rồi lại nhớ…” - cô Hà chia sẻ.

Giữa trưa, ánh nắng chiếu từ trên cao xuyên thẳng xuống thung lũng bỏng rát da người. Mùa hè nơi đây cũng thường nóng nực hơn so với những khu vực khác.

Ngoài cô Hà, hiện ở đây còn có thầy giáo Nguyễn Văn Sơn lên thôn Ka Tủ công tác cũng đã gần 5 năm. Thầy phụ trách lớp 3 và lớp 4, hai lớp học chung một phòng. Mỗi lớp chỉ có 4 và 6 học sinh.

Thầy Sơn dẫn chúng tôi vào lớp học, đó là một căn phòng nhỏ được ngăn đôi làm hai lớp, bên cạnh chiếc bảng và bàn ghế học sinh, còn kê thêm một cái giường đơn. Thấy chúng tôi lạ lẫm, thầy Sơn chỉ cười rồi nói: “Đó là chỗ nghỉ ngơi của thầy giáo đấy”.

Trong bản làng của thôn Ka Tủ, ngoài lớp học của điểm trường tiểu học còn có cả lớp học của trường mầm non do cô Lê Thị Thương phụ trách.

Lúc chúng tôi đến đang là giờ học vận động, đồ dùng học tập của các cháu là ba viên gạch vồ, mấy thanh tre được uốn cong như cây cung và cột lại với nhau bằng những sợi dây sơ sài.

Các em học sinh xếp hàng, chụm chân nhảy qua mấy viên gạch đó, rồi luồn người qua những thanh tre uốn cong. Đơn giản vậy thôi mà thấy các em say mê chơi một cách kỳ lạ. Tiếng cười vui vang cả phòng học nhỏ.

Chuyện những bà mẹ vùng cao làm thầy

Có không ít ông bố, bà mẹ người dân tộc thiểu số hàng ngày cùng thầy cô đứng lớp nơi non cao. Họ sử dụng ngôn ngữ dân tộc mình hỗ trợ bài giảng cho các giáo viên.

http://giaoducthoidai.vn/giao-duc/dem-con-chu-den-ban-lang-vung-cao-1858478-b.html

Theo Trần Cao Anh/Giáo dục & Thời đại

Bạn có thể quan tâm