Trong một lần khám sức khỏe, bác sĩ Phạm Đăng Tính tình cờ phát hiện khối u nằm ở khung chậu bên trái. Các chuyên gia kết luận đây là khối u lớn, rất nguy hiểm khi mổ vì nằm sát các cấu trúc mạch máu, thần kinh vùng chậu. Không gian tiếp cận và phẫu thuật khối u rất hẹp nên tỷ lệ biến chứng cao, thậm chí một số ca tương tự đã tử vong.
“Lúc đó, trời đất như đổ sập trước mặt tôi. Ở tuổi 31, tôi có những gì mình mong ước: Công việc ở bệnh viện quốc tế, gia đình nhỏ đang chuẩn bị chờ đón đứa con thứ hai ra đời”, bác sĩ Tính nhớ lại.
Mắc u lớn hiếm gặp ở tuổi ngoài 30
Thương vợ đang mang thai ở tháng thứ 8, anh quyết định giấu gia đình căn bệnh quái ác và trì hoãn cuộc phẫu thuật. Âm thầm nén chặt nỗi lo lắng đến khi con chào đời khỏe mạnh, bác sĩ Tính mới thông báo cho gia đình nhưng giấu đi tính chất nghiêm trọng của ca mổ. Anh chỉ tâm sự riêng với mẹ vợ về cuộc phẫu thuật “lành ít dữ nhiều” và dặn dò: “Con tin tưởng giao phó sinh mạng cho đồng nghiệp. Dù chuyện gì xảy ra, mẹ và gia đình hãy tin rằng họ đã cố gắng hết mức”.
Ê-kíp mổ của bác sĩ Phan Văn Thái tỉ mỉ thực hiện phẫu thuật. |
Qua khảo sát chuyên sâu, các bác sĩ nhận định khối u nằm ngoài phúc mạc vùng chậu bên trái, kích thước 12x10x9 cm, trải dài từ thắt lưng L4-L5 đến cạnh tuyến tiền liệt gần hậu môn. Đây là dạng u đặc, nhiều mô canxi hóa. Khối u nằm tựa lên vách xương chậu bên trái, đồng thời tựa lên thần kinh L4-L5 và xương cùng; mạng lưới mạch máu chậu trong chằng chịt ở vách chậu trái bị đẩy qua phải, đồng thời u đẩy các cơ quan vùng chậu như trực tràng, bàng quang, niệu quản qua bên phải.
Các bác sĩ tổ chức hội chẩn đa chuyên khoa (gồm Ngoại tổng quát, Ngoại thần kinh, Niệu khoa, Chẩn đoán hình ảnh, Gây mê Hồi sức…) để tính toán phương án phẫu thuật hiệu quả và an toàn nhất. Bác sĩ chuyên khoa II Phan Văn Thái, Trưởng khoa Ngoại tổng quát, phụ trách chính ca mổ. Mục tiêu là bóc trọn khối u để giảm rủi ro tái phát, hạn chế sang thương lân cận, tránh tai biến đại tiểu tiện không tự chủ sau mổ, ngăn ngừa chảy máu.
Nhận định đây là ca mổ kéo dài, nguy cơ chảy máu cao, ê kíp chuẩn bị sẵn sàng chế phẩm máu, đặt đường truyền máu tốt, theo dõi chặt chẽ huyết động học.
“Chúng tôi coi bác sĩ Tính như người thân, thêm nữa đây là u hiếm nên phải tính toán kỹ lưỡng để cuộc mổ có kết quả tốt nhất”, bác sĩ Nguyễn Thị Lam Giang, Khoa Gây mê Hồi sức, chia sẻ.
Ca mổ cân não kéo dài 12 giờ
Sáng 6/11, bác sĩ Tính được đưa vào phòng mổ. Trước lúc gây mê, anh nắm chặt tay từng thành viên trong ê kíp phẫu thuật, động viên mọi người thực hiện ca mổ trong tâm thế thoải mái nhất. Nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra, anh vẫn hài lòng với lựa chọn và tin tưởng giao phó sinh mạng cho đồng nghiệp.
Ê-kíp phẫu thuật cho bác sĩ Tính gồm 4 bác sĩ và do bác sĩ Phan Văn Thái phụ trách, cùng 4 bác sĩ gây mê hồi sức. Trong cuộc mổ, bác sĩ Thái tỉ mỉ tách mạch máu, gỡ khối u khỏi mạng lưới chằng chịt, bảo tồn tối đa hệ thống mạch máu.
“Có những vùng phải bóc tách từng milimet vì một khi mạch máu bị vỡ thì không có chỗ để cầm máu. Cách duy nhất là cắt ngang khối u và cầm máu cứu sống bệnh nhân. Lúc đó, ý nghĩa bóc trọn u tránh tái phát không còn nữa”, bác sĩ Thái cho biết.
Bác sĩ Phạm Đăng Tính hồi tỉnh sau ca phẫu thuật 12 giờ. |
Khi bóc tách khối u, các bác sĩ phát hiện phần phía sau bên trái có vài nhánh thần kinh của dây thần kinh tọa hòa vào vỏ u. Việc bóc tách thần kinh đồng nghĩa với việc để lại vỏ u, chắc chắn bị tái phát.
Để đảm bảo khối u được loại bỏ, ê-kíp quyết định cắt bỏ nhánh thần kinh đã hòa vào u, chấp nhận bệnh nhân yếu một vài nhóm cơ ở chân trái. Sau 12 giờ, toàn bộ khối u được lấy ra ngoài. Ê-kíp thở phào khi toàn bộ thần kinh chi phối hệ niệu-dục dù rất nhỏ, vẫn được bóc tách và bảo tồn trọn vẹn. Bệnh nhân không cần truyền máu thêm.
Bác sĩ Tính ôm chặt bác sĩ Thái trong ngày xuất viện. |
Khối u được gửi làm sinh thiết và cho kết quả là u bao sợi thần kinh (Schwannoma). Theo thống kê ở Mỹ, đây là khối u vùng chậu cực hiếm với tỷ lệ mắc khoảng 2,4 trường hợp/triệu dân.
“Lúc tỉnh dậy, tôi vui lắm khi khối u được lấy trọn, vấn đề đại tiểu tiện vẫn tự chủ. Quan trọng nhất là tôi còn sống sau khi trải qua cuộc đại phẫu”, bác sĩ Tính nhớ lại.
Sau phẫu thuật, anh tiếp tục tập vật lý trị liệu và phục hồi chức năng để điều trị chứng yếu và tê chân trái.
Bác sĩ Tính tận hưởng niềm vui bên gia đình. |
Những gì bác sĩ Tính trải qua là thử thách, cũng là phép màu. Vốn suy nghĩ tích cực, anh tin rằng mình sẽ sớm quay lại công việc tại Bệnh viện FV, đóng góp nhiều hơn nữa cho việc cứu người.