Hội chứng suy hô hthường gặp ở trẻ sơ sinh non tháng, số tuần tuổi của trẻ càng thiếu thì nguy cơ này càng tăng. Đây là một triệu chứng rất nguy hiểm cho tính mạng của trẻ nên cần được chẩn đoán sớm và can thiệp kịp thời.
Nguyên nhân gây suy hô hấp ở trẻ sinh non
Suy hô hấp là tình trạng hệ hô hấp không đủ khả năng duy trì sự trao đổi khí phù hợp với nhu cầu của cơ thể. Có nhiều nguyên nhân gây ra suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, trong đó nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do trẻ sinh non. Trẻ càng sinh thiếu tuần tuổi thì càng dễ bị suy hô hấp.
Trẻ sơ sinh bị suy hô hấp sơ sinh chủ yếu là do tình trạng xẹp phổi do thiếu chất surfactant - là chất giảm hoạt bề mặt có tác dụng duy trì tính ổn định của phế nang, giúp cho các phế nang không bị xẹp. Ở trẻ sinh non, các cơ hô hấp cũng chưa phát triển đầy đủ, lồng ngực mềm nên phổi dễ bị xẹp.
Ngoài ra, trẻ sơ sinh dễ có nguy cơ suy hô hấp trong các trường hợp sau: mẹ bị xuất huyết trước sinh, trẻ bị ngạt, hạ thân nhiệt,…
Bên cạnh đó, nếu mẹ từng sinh con non tháng bị suy hô hấp thì có nguy cơ cao sinh con bị suy hô hấp ở lần sinh sau. Mẹ bị đái tháo đường khiến hàm lượng insulin của thai nhi cao hơn bình thường.
Nếu mẹ sinh mổ mà chưa chuyển dạ, cũng là nguyên nhân khiến trẻ bị suy hô hấp do quá trình chuyển dạ phóng thích các hoóc môn kích thích sản xuất và phóng thích surfactant, dẫn đến tăng tái hấp thu dịch phổi qua hệ bạch huyết phổi. Nếu được sinh mổ lúc bà mẹ chưa chuyển dạ, trẻ dễ bị thiếu surfactant và có lượng dịch trong phổi cao.
Nguyên nhân gây suy hô hấp ở trẻ còn có thể là do trẻ mắc một số tổn thương hệ thần kinh trung ương như trẻ bị viêm não, viêm màng não, sang chấn sọ não, xuất huyết não, bệnh tim bẩm sinh, viêm phế quản, viêm phổi, tắc lỗ mũi sau, có chướng ngại vật ở đường hô hấp như đờm dãi, sữa,… Những nguyên nhân này khiến khả năng thích ứng của các cơ quan nội tạng để duy trì chức năng hô hấp bị rối loạn gây ra hiện tượng suy hô hấp.
Có thể để lại di chứng
Thông thường, sau khi sinh khoảng vài phút hoặc vài giờ sau khi sinh trẻ xuất hiện hội chứng suy hô hấp nặng mà không tìm thấy các nguyên nhân như nhiễm khuẩn, ngạt nước ối, hít phải phân su... với biểu hiện là khó thở nhanh nông, nhịp thở trên 60 lần/phút.
Các khoang liên sườn, hõm trên ức, co kéo, cánh mũi phập phồng, toàn thân tím tái. Cho thở ôxy không đỡ... Nếu nặng, các dấu hiệu tím tái, khó thở tăng lên, huyết áp hạ, thân nhiệt hạ, trẻ có thể tử vong. Nếu nhẹ và được can thiệp kịp thời, điều trị đúng cách thì sau khoảng 72 giờ các triệu chứng giảm dần và trẻ có thể được cứu sống. Tuy nhiên, sau khi khỏi bệnh có thể để lại các di chứng như thiếu ôxy não, xuất huyết não, hạ đường huyết…
Nguyên tắc điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh là dùng surfactant thay thế càng sớm càng tốt, hỗ trợ hô hấp, thở ôxy. Ngoài ra, cần áp dụng các phương pháp hỗ trợ như bảo vệ thân nhiệt, dinh dưỡng, hỗ trợ tuần hoàn và điều trị nhiễm trùng.
Các biện pháp phòng ngừa
Để phòng tránh trẻ sơ sinh có thể bị suy hô hấp nặng, điều đầu tiên rất quan trọng là khi mang thai, thai phụ phải đảm bảo sức khỏe, có chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt, lao động phù hợp, khám theo dõi thai đều đặn để được tư vấn chăm sóc tốt, phát hiện sớm những nguy cơ để hạn chế tối đa tình trạng sinh non, sinh con nhẹ cân.
Khi sinh, sản phụ phải đến cơ sở y tế, tuyệt đối không sinh con tại nhà mà cần được nữ hộ sinh hoặc bác sĩ chuyên sâu đỡ đẻ. Sau đẻ, sản phụ và người chăm sóc trẻ cần biết cách theo dõi trẻ, phát hiện những bất thường để xử lý kịp thời.
Ngoài ra ở các thai phụ có nguy cơ như phải mổ lấy thai, thời gian chuyển dạ quá lâu, bị băng huyết, mang đa thai, bị bệnh đái tháo đường, sử dụng chất corticoid kéo dài trong thời gian mang thai, tiền sử gia đình có trẻ bị suy hô hấp,... cần được các bác sĩ chuyên khoa khám quản lý theo dõi chặt chẽ để có biện pháp can thiệp kịp thời.