Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Một loại ung thư phổ biến đang gia tăng rất nhanh ca mắc

Ở giai đoạn đầu, ung thư đại trực tràng gần như không có biểu hiện đặc trưng. Nhiều bệnh nhân vẫn sinh hoạt bình thường cho tới khi bệnh tiến triển nặng.

Chỉ riêng năm 2020, thế giới ghi nhận hơn 1,9 triệu ca mắc mới và trên 930.000 ca tử vong vì căn bệnh này. Ảnh: Freepik.

"Ung thư đại trực tràng là một trong những loại ung thư phổ biến nhất hiện nay, đứng thứ ba về số ca mắc mới và thứ hai về số ca tử vong trên toàn cầu", bác sĩ nội trú Dương Thị Hường, Trung tâm Phẫu thuật Gan mật - Tiêu hóa, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, chia sẻ.

Chỉ riêng năm 2020, thế giới ghi nhận hơn 1,9 triệu ca mắc mới và trên 930.000 ca tử vong vì căn bệnh này. Theo báo cáo của Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (GLOBOCAN) 2022, mỗi năm nước ta ghi nhận khoảng 16.835 ca mắc mới. Đáng lo ngại, 20-30% bệnh nhân được phát hiện khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn di căn, làm giảm đáng kể cơ hội sống sót.

Đại trực tràng và cơ chế hình thành ung thư

Đại trực tràng là phần cuối cùng của hệ tiêu hóa, gồm đại tràng - nơi hấp thụ nước, muối từ thức ăn - và trực tràng, đoạn dài khoảng 15 cm có nhiệm vụ chứa chất thải trước khi đào thải ra ngoài. Khi các tế bào tại đây phát triển bất thường, mất kiểm soát, ung thư đại trực tràng có thể hình thành.

Theo bác sĩ Dương Thị Hường, Trung tâm Phẫu thuật Gan mật - Tiêu hóa, điểm nguy hiểm là bệnh thường không có triệu chứng điển hình ở giai đoạn sớm, chỉ biểu hiện mơ hồ và dễ nhầm với bệnh lý tiêu hóa thông thường. Do đó, nhiều bệnh nhân chỉ phát hiện khi ung thư đã ở giai đoạn tiến triển.

Ung thu dai truc trang anh 1

Điểm nguy hiểm là bệnh thường không có triệu chứng điển hình ở giai đoạn sớm, chỉ biểu hiện mơ hồ. Ảnh: Freepik.

Phần lớn ung thư đại trực tràng bắt nguồn từ những khối nhỏ gọi là polyp. Quá trình từ polyp lành tính biến thành ung thư có thể kéo dài 10-15 năm. Không phải polyp nào cũng nguy hiểm, song các loại polyp tuyến (adenoma) có nguy cơ cao, đặc biệt là dạng nhung mao hoặc hỗn hợp.

"Các yếu tố khiến polyp dễ hóa ác tính gồm kích thước lớn hơn 1 cm, xuất hiện nhiều polyp cùng lúc hoặc có loạn sản. Vì vậy, tầm soát bằng nội soi đại tràng định kỳ là cách hiệu quả nhất để phát hiện và xử lý sớm", bác sĩ Dương Thị Hường, Trung tâm Phẫu thuật Gan mật - Tiêu hóa, nhấn mạnh.

Hầu hết ca bệnh là ung thư biểu mô tuyến, xuất phát từ tế bào tiết nhầy trong lòng ruột. Một số dạng hiếm gặp khác như u carcinoid, u mô đệm (GIST), lympho hay sarcoma cũng có thể xuất hiện, dù tỷ lệ thấp.

Một khi hình thành, ung thư lan từ lớp niêm mạc trong cùng ra các lớp khác, xâm nhập mạch máu, bạch huyết và di căn đến hạch, gan, phổi… Đây là lý do khiến tiên lượng bệnh nặng nề nếu phát hiện muộn.

Dấu hiệu nhận biết dễ bị bỏ qua

Theo bác sĩ nội trú Dương Thị Hường, Trung tâm Phẫu thuật Gan mật - Tiêu hóa, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, ở giai đoạn đầu, ung thư đại trực tràng gần như không có biểu hiện đặc trưng. Nhiều bệnh nhân vẫn sinh hoạt bình thường cho tới khi bệnh tiến triển nặng. Khi đó, các triệu chứng bắt đầu xuất hiện rõ rệt hơn.

Người bệnh có thể nhận thấy sự thay đổi trong thói quen đại tiện như tiêu chảy hoặc táo bón kéo dài, phân thay đổi hình dạng, thậm chí cảm giác đi ngoài không hết phân. Một số trường hợp phát hiện máu lẫn trong phân, có thể là máu đỏ tươi hoặc phân đen.

Ngoài ra, đau bụng âm ỉ, dai dẳng, kèm theo đầy hơi, chướng bụng, hay chuột rút cũng là những biểu hiện thường gặp. Nhiều bệnh nhân bị sụt cân nhanh chóng mà không rõ nguyên nhân, kèm theo tình trạng thiếu máu do thiếu sắt, gây mệt mỏi, suy nhược và da xanh xao. Với ung thư đại tràng phải, khối u lớn dần có thể sờ thấy trong ổ bụng. Khi bệnh đã lan rộng, các triệu chứng toàn thân trở nên rõ ràng hơn như gan to, vàng da hoặc khó thở nếu khối u đã di căn sang phổi.

"Những triệu chứng này khá dễ nhầm lẫn với các bệnh lý tiêu hóa phổ biến như trĩ, viêm dạ dày hay hội chứng ruột kích thích. Chính vì vậy, nhiều người có tâm lý chủ quan, dẫn tới chậm trễ trong việc đi khám, bỏ lỡ 'thời điểm vàng' để điều trị", bác sĩ nội trú Dương Thị Hường, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cho hay.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ

Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân chính xác gây ung thư đại trực tràng vẫn chưa được xác định hoàn toàn. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa yếu tố di truyền, môi trường và lối sống có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành bệnh. Một số hội chứng di truyền làm tăng đáng kể khả năng mắc ung thư, song đa số trường hợp lại liên quan đến thói quen sinh hoạt và tác động từ bên ngoài.

Trong nhóm các yếu tố nguy cơ có thể kiểm soát, bác sĩ Hường cho hay thừa cân, béo phì là vấn đề nổi bật.

Những người có chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 30 trở lên có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng cao hơn khoảng 30% so với người có cân nặng bình thường. Thậm chí, ngay cả khi chỉ ở mức thừa cân, nguy cơ cũng đã cao hơn mức trung bình.

Ung thu dai truc trang anh 2

Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân chính xác gây ung thư đại trực tràng vẫn chưa được xác định hoàn toàn. Ảnh: Duy Hiệu.

Chế độ ăn uống cũng đóng vai trò quan trọng. Việc tiêu thụ nhiều thịt đỏ như thịt bò, thịt lợn, hoặc các loại thịt chế biến sẵn như xúc xích, thịt xông khói, kết hợp cùng chế độ ăn giàu chất béo, tinh bột tinh chế và đồ uống nhiều calo, sẽ làm gia tăng nguy cơ ung thư.

Đặc biệt, thói quen nấu thịt ở nhiệt độ cao như chiên hoặc nướng dễ tạo ra các chất gây ung thư. Ngược lại, khẩu phần ăn nhiều rau, trái cây và ngũ cốc nguyên hạt có tác dụng bảo vệ, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.

Bên cạnh đó, hút thuốc lá từ lâu đã được chứng minh là yếu tố nguy cơ đối với hầu hết loại ung thư, trong đó có ung thư đại trực tràng. Người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh cao hơn khoảng 18% so với người không hút.

Thói quen uống rượu bia thường xuyên, ở mức vừa đến nhiều, cũng làm nguy cơ mắc ung thư tăng gấp 1,2 đến 1,5 lần. Ngoài ra, những người mắc đái tháo đường hoặc kháng insulin có tỷ lệ ung thư cao hơn so với người khỏe mạnh.

Trong nhóm yếu tố nguy cơ không thể thay đổi, tuổi tác là yếu tố quan trọng nhất. Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo độ tuổi, đặc biệt sau 50, dù gần đây số ca mắc ở nhóm trẻ dưới 50 cũng đang có xu hướng tăng. Giới tính cũng tạo nên sự khác biệt, khi nam giới được ghi nhận có nguy cơ tử vong vì ung thư đại trực tràng cao hơn nữ.

Những người từng có polyp đại trực tràng, đặc biệt là polyp lớn, số lượng nhiều hoặc có loạn sản, có nguy cơ tiến triển thành ung thư cao hơn bình thường. Phụ nữ từng mắc ung thư vú, tử cung hoặc buồng trứng cũng có nguy cơ cao hơn. Các bệnh lý viêm ruột mạn tính như bệnh Crohn hay viêm loét đại tràng, do tình trạng viêm kéo dài ở niêm mạc ruột, cũng làm tăng nguy cơ đáng kể.

Yếu tố di truyền chiếm khoảng 5-10% tổng số ca mắc. Những hội chứng thường gặp nhất là hội chứng Lynch và bệnh đa polyp tuyến gia đình (FAP). Người mang đột biến gene thường phát bệnh ở độ tuổi trẻ hơn so với mặt bằng chung. Nguy cơ cũng gia tăng nếu trong gia đình có người thân mắc ung thư đại trực tràng, đặc biệt khi có từ hai thành viên trở lên.

Cuối cùng, những người từng phải xạ trị vùng bụng để điều trị các loại ung thư khác cũng được ghi nhận có nguy cơ phát triển ung thư đại trực tràng trong những năm sau đó.

Cuốn sách "Ăn chuẩn ít bệnh" (tập 1) được viết ra từ những kinh nghiệm chuyên môn của vị bác sĩ này, nó sẽ mang đến cho người bệnh những kiến thức hữu ích về dinh dưỡng, để xây dựng chế độ ăn hợp lý.

Để ung thư không còn là 'án tử' của người Việt

Trong bối cảnh y học hiện đại, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM đã có những bước tiến mạnh mẽ, không chỉ trong việc kéo dài sự sống mà còn nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân ung thư.

Phương Anh

Bạn có thể quan tâm